Thứ Hai, tháng 12 31, 2007

NGẪM NGHĨ NGÀY CUỐI NĂM

1. Buổi sáng cuối năm 2007. Ngồi ở chốn quen thuộc mỗi sáng. Ăn một món ăn quen thuộc. Tán chuyện vu vơ vài câu với mấy ông anh bạn già. Nhận một món quà từ miền Trung - thuốc lá Cẩm Lệ và ớt xanh Đà Nẵng. Chợt nhớ hôm nay là ngày cuối cùng của những chiếc xe lôi.
Trộm nghĩ, phố xá Miền Tây mà vắng bóng chiếc xe lôi kéo cái thùng cọc cạch thì liệu có còn chút chi hồn vía vốn có. Cái không gian văn hoá Nam bộ nếu chỉ là những chiếc xe tải, xe tuk tuk xăng khói mù mịt thì liệu có níu giữ được bản sắc vốn đã mai một lần hồi.
Ngoắc chú Tư xe lôi hay đậu ở góc đường Phan Đình Phùng - Nguyễn Thái Học (đối diện Hoàng Cung) để đi cuốc xe lôi cuối cùng. Hỏi chú: “Bữa nay là bữa cuối ha chú. Mấy ổng có dời cái lịnh đã ban chưa”. Chú Tư trả lời mà miệng méo xệch: “Chú đang chờ con ơi. Để coi mấy ông Hội đồng với nhà báo có cách chi giúp không. Trong khi chờ thì mình phải chấp hành chớ biết sao. Ngày mai mà tụi chú kéo xe, kéo thùng lển nghển ngoài đường, mấy ổng thấy phố xá xấu xí, mấy ổng phạt thì chết”. Tôi hỏi mà lòng còn đau hơn cái miệng đang méo xẹo của chú Tư: “Nhưng rồi tụi con biết đi lại bằng gì đây chú Tư”. “Ngặt nổi còn không mấy ngày nữa là Tết tới rồi con ơi”.
Đau lòng là ở chỗ đó. Mấy ổng ban lệnh cấm thì dễ nhưng lo chuyện nồi cơm, manh áo cho dân mới là chuyện đáng bàn. Đằng sau mỗi một chiếc xe lôi là cả một thân phận, là một kiếp mưu sinh cực nhọc muôn phần. Nghe đâu xứ miền Tây cò bay thẳng cánh này có đến 10 ngàn cái thân phận bọt bèo như chú Tư vậy đó.
Tôi vốn được bạn bè gắn cho cái “Huy chương vì sự nghiệp xe lôi, xe ôm”. Toà soạn phát cho mỗi tháng 300 ngàn đồng tiền xăng xe, có điều tôi chi còn lố hơn số tiền này. Được cái tôi quen tất tật mấy anh, mấy chú xe lôi xe kéo từ sài Gòn cho đến Cần Thơ. Quen đến mức mà ngồi trên xe có thể tán dóc đủ thứ chuyện. Quen đến mức mà ông xe ôm trước Toà soạn ở Cống Quỳnh thấy tôi đứng lựng xựng trước cổng là hỏi liền cô về quận 10 hay quận 4. Quen đến mức mà anh xe lôi trước Co-op Mart Cần Thơ thấy tôi xách lùm đùm, lề đề là hỏi ngay bữa nay chị về thẳng nhà chớ hổng vô văn phòng phải không ! Quen đến mức mà hôm nào bận công việc lu bù tôi có thể điện thoại nhờ anh Hải hay thằng Tuấn xe ôm trước chợ Xuân Khánh ghé vô chị Đáng, vô bé Linh lấy thức ăn về giùm. Hôm trước anh Hải khoe con gái ảnh đậu đại học Cần Thơ. Tôi mừng thiếu điều muốn chảy nước mắt. Chạy vô nhà lấy ra chồng tập học sinh ra tặng cho con gái ảnh. Cũng may mà sức khoẻ của ảnh mạnh ra sau khi bị bệnh thập tử nhất sinh tới ba bốn tháng trời.
Trong những nghề nghiệp kiếm sống bằng sức lao động chân tay xem ra những người chạy xe lôi, xe kéo là có học thức nhất. Ngoại trừ mấy tay tre trẻ, còn hầu hết mấy ông già, mấy chú trung niên đa phần là dân Tây học cả. Nhớ cái đận khó khăn của những năm cuối thập niên 70, đa phần các trí thức nếu không đi vùng kinh tế mới muốn bám trụ ở thành phố đa phần đều chọn nghề chạy xe lôi. Lúc xăng nhớt còn chưa được bán ra ngoài rộng rãi thì họ chạy xe lôi đạp. Tôi còn nhớ mấy ổng chế ra cái thắng xe bằng chiếc dép lốp, gắn vô bánh sau. Mỗi khi xe đổ dốc cầu cao cao cỡ cầu Quay Bạc Liêu lại thấy mấy bác tài đá ngược chân ra sau đạp mạnh vô chiếc dép, miệng la chói lói: dzô dzô… Thắng riết, chiếc dép lốp mòn vẹt thiếu điều muốn lủng mà còn không dư nổi tiền mua chiếc mới. Tới chừng, xăng nhớt có bán ra lại trên thị trường lại thấy mấy bác, mấy chú hè hụi đem chiếc xe 67 ra sửa sang, nâng cấp gắn vô cái thùng là đủ để tà tà kiếm sống. Mấy ông bạn đồng nghiệp kể, ông già chạy xe lôi lâu nhất Cần Thơ nuôi cả một bầy con đậu đại học, ăn nên làm ra. Một người con của ông lão nay làm đến chức chủ tịch một quận trung tâm của đất Tây đô.
Mà nói chi đâu cho xa. Còn nhớ hồi nhà tôi khăn gói vô Bạc Liêu kiếm sống hồi cuối những năm 70. Tưởng là vô xứ ruộng đồng cò bay thẳng cánh chuyện mưu sinh sẽ dễ như trở bàn tay. Anh em nhà tôi toàn dân được sung sướng từ nhỏ đến lớn vốn chỉ nhờ vào một suất lương công chức của ba tôi nên có biết chi chuyện đối mặt với kế sinh nhai. Ba tôi - một viên chức y tế, vốn cai quản cả một ngân hàng huyết học tại Bệnh viên TW H. - rốt cùng lại lọc cọc đi đạp xe lôi. Ba tôi đạp buổi sáng, buổi chiều đến lượt ông anh thứ Năm của tôi. Ngoài giờ đi học, đi dạy, anh đạp phụ thêm tiền chợ… Lọc lọc, lạch cạch mà rồi cũng qua cái đận đó. Ba tôi đã qua đời khi chưa kịp thấy chúng tôi nên người – theo cái nghĩa là đã định hình cuộc sống – đó là điều mà tôi ân hận nhất. Anh Năm tôi đã ổn định, con cái đứa đậu đại học, đứa học hành giỏi giang và nhất là chúng không đua đòi. Chúng biết cái gốc của mình là từ đâu mà ra. Chuyện nhà tôi là vậy. Nói chi đến chuyện của 10 ngàn gia đình hiện đang nương nhờ chiếc thùng xe lôi.
Chú Tư chở tôi ghé văn phòng, đưa cho chú Tư tờ 20 ngàn và nói chú khỏi thối. Chú lắc đầu quầy quậy không chịu nhận, phải đến khi tôi nói tôi biếu chú cuối năm chú mới thôi từ chối. Mà hồi nào tới giờ đa phần đi xe lôi, xe kéo tôi toàn gặp những người sống thiệt là tử tế - cái chuyện tử tế tưởng chừng là dễ ai dè đôi khi thiệt là hiếm hoi ở những người áo mũ xênh xang mà tôi đã gặp đâu đó trong cuộc đời.
Buồn quá !

2. Buổi chiều cuối năm 2007. Giờ này có lẽ chuyến bay chở gia đình T.C. Khả đã đến Ca li. Trưa qua là một buổi chia tay đẫm nước mắt tại phi trường sau cả một tháng trời pha trộn đủ thứ cảm xúc của anh em, của đồng nghiệp. Đứa cứng rắn như Lợi cũng phải quay mặt đi; chị Ba, Th. Trang, T. Trình khóc ràn rụa. Trên đường về ai cũng nặng trĩu cảm xúc. Chị Ba nói: “Chị không tin là lên S.G đưa chú Khả đi Mỹ. Cứ tưởng tượng như là mình về xem Duyên Dáng VN như mọi năm”. Trang thì nhớ: “Vậy là em hết nghe tiếng ảnh chạy lẹp xẹp, lẹp lên cầu thang nữa rồi”. Trình thì nói: “Nữa vô họp hành, gặp lúc căng thẳng lấy ai dám nói chuyện tiếu lâm cho đỡ khổ đây”… Tôi thì nhớ hình ảnh ba của Khả ôm bé Thức khóc ròng mà buồn không thể tả.
Nhớ cách đây đã chừng 8 năm, tôi kéo Khả về văn phòng làm việc. Khi đó, Kh. đang cộng tác với một số tờ báo khác. Nhiều người nói, quản được tay này là khó lắm đây vì cái chân hắn là chân chạy, không chịu vô khuôn phép nào cả. Tôi vẫn chấp nhận. Và sau khi hắn về văn phòng mới thấy điều… “khủng khiếp” ở hắn không phải là những gì đồng nghiệp cảnh báo. "Khủng khiếp" nhất ở chỗ hắn… viết sai lỗi chính tả đến độ kinh hoàng ! Tôi rèn hắn 8 năm nay, chuyện gì cũng OK cả, chỉ mỗi một chuyện chính tả là chào thua. Đến độ hôm nào thấy hắn nộp một bài viết hết sức trơn tru là tôi lại nhìn hắn đầy hoài nghi: “Ê ! Nói thiệt tao nghe coi. Chuyện lạ như vầy chỉ có 2 phương án: một là đạo bài người khác, hai là nhờ vợ sửa lỗi chính tả phải không”. Hắn cười lỏn lẻn bảo: “Chị thông cảm đi. Em là nạn nhân chiến tranh mừ. Hồi nhỏ giặc giã liên miên, đi chăn trâu kiếm sống nên đâu có học hành suôn sẻ như người ta”. Lại có chuyện hắn check mail hoài huỷ không được, tưởng là máy tính bị nhiễm virus. Ai dè, hồi lâu mọi người mới hiểu ra là hắn nhập mật khẩu của mình bị… sai lỗi chính tả, không nhận mail được là phải rồi ! Tôi thì bảo với mọi người, nếu khi nào thấy trang web hay blog của Khả mà câu chữ trơn tru, sạch nước cản thì y như rằng… mấy tay hacker đã xâm nhập bất hợp pháp !
Nói cho vui vậy chớ tôi cũng như anh em văn phòng vẫn chưa quen việc mình mất đi một tay cộng sự, một đồng nghiệp, một thằng em vô cùng dễ thương. Có tiếng là tay nhiếp ảnh gia có hạng với người trong giới khắp vùng Nam, Bắc mà chưa đồng nghiệp nào thấy hắn chảnh bao giờ. Ai xin hình hoặc nhờ vả gì cũng thấy hắn xăng xái, tận tâm. Giở lại kho tư liệu ảnh hắn để lại mới thấy sức làm việc của hắn đáng nể vô cùng.
Nhưng điều thích nhất là Khả có một lòng nhân hậu thật sự. Chụp hình một đứa bé lang thang bán cua đồng ở Cần Thơ, tiếp một bà già Vĩnh Long đi tìm cháu mà không có tiền đăng báo, gặp con bé bán bánh bì bên bờ Bắc Cổ Chiên… lại thấy hắn lén lén móc bóp lấy tiền ra cho. Cũng chỉ có hắn mới nghĩ bày ra nhiều trò vui chơi, xin quà cho mấy đứa trẻ mồ côi, trẻ khuyết tật, người già… thiệt là xôm tụ. Và cũng chỉ có hắn mới khiển nổi mấy em hoa hậu, chân dài ăn mặc kín đáo đi cắt tóc, gội đầu, cắt móng tay cho mấy đứa trẻ tật nguyền. Vậy mà lâu lâu thấy không đi đâu, mấy em chân dài lại điện thoại tìm hắn tíu tít.
Nhớ hôm có sự cố sập cầu Cần Thơ. Đi chụp hình về hắn bị sốc nặng, khóc hụ hụ từ bến Ninh Kiều đến tận văn phòng. Thấy cảnh hắn bò lên từng bậc thang lầu rồi xỉu đi mà không ai chịu nổi. Tính khí của hắn là vậy.
Chuyện ra đi của hắn cũng nhiều khúc mắc. Từ bỏ một công việc ổn định, một tờ báo mà hắn yêu, một môi trường làm việc tốt, một vị trí làm nghề không phải ai cũng có được. Đánh đổi lại được gì ?
Hắn cũng không biết chuyện gì đang đợi chờ mình trước mắt.
Tôi chỉ mong với một đứa có tấm lòng nhân hậu như hắn chắc hẳn sẽ gặp được điều may mắn.
Những tôi cũng lo khi với một tâm hồn nhạy cảm như vậy liệu hắn có thích nghi được với cảnh mới, lòng người cũng mới. Và nhất là khi thiếu một môi trường làm việc hắn sẽ ra sao ?
Quá nhiều ngổn ngang cho một ngày cuối năm.

Thứ Năm, tháng 12 13, 2007

TỔ QUỐC

Tổ quốc bắt đầu từ đâu?
Tổ quốc bắt đầu từ đâu?
Từ bức tranh ta được xem ngày nhỏ
Từ những người bạn tốt vẫn cùng ta
Thường đi học và chơi chung một phố.
Cũng có thể Tổ quốc được bắt đầu
Từ bài hát mẹ ta ru âu yếm,
Từ những cái ta quyết giữ vẹn tròn
Cả trong những giờ khó khăn nguy hiểm.
Tổ quốc bắt đầu từ đâu?
Từ chiếc ghế ta vẫn ngồi trước ngõ,
Từ cây phong đơn độc giữa cánh đồng
Khẽ chào nhẹ mỗi lần có gió.
Cũng có thể Tổ quốc được bắt đầu
Từ bài hát đầu xuân con sáo hát
Từ con đường ven xóm nhỏ quanh co
Và biến mất trong sương chiều xanh nhạt.
Tổ quốc bắt đầu từ đâu?
Từ ánh đèn nhà ai đang run rẩy,
Từ chiếc mũ bố ta đội ngày xưa,
Mà bất chợt trong hòm ta lại thấy.
Cũng có thể Tổ quốc được bắt đầu
Từ tiếng gõ của con tàu mệt mỏi
Từ lời thề mà thời trẻ yêu nhau
Ta giấu kín trong tim không dám nói.
Tổ quốc bắt đầu từ đâu?
Mikhail Lvovich Matusovsky (Nga)

ĐẤT NƯỚC

"Khi ta lớn Đất Nước đã có rồi
Đất Nước có trong những cái "ngày xửa ngày xưa.." mẹ thường hay kể
Đất Nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn
Đất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc.
Tóc mẹ thì bới sau đầu
Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn
Cái kèo, cái cột thành tên
Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, giần, sàng
Đất Nước có từ ngày đó...
Đất là nơi anh đến trường
Nước là nơi em tắm
Đất Nước là nơi ta hò hẹn
Đất Nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm.
Đất là nơi "con chim phượng hoàng bay về hòn núi bạc"
Nước là nơi "con cá ngư ông móng nước biển khơi"
Thời gian đằng đẵng
Không gian mênh mông
Đất Nước là nơi dân mình đoàn tụ
Đất là nơi Chim về
Nước là nơi Rồng ở
Lạc Long Quân và Âu Cơ
Đẻ ra đồng bào ta trong bọc trứng
" Những ai đã khuất
Những ai bây giờ
Yêu nhau và sinh con đẻ cái
Gánh vác phần người đi trước để lại
Dặn dò con cháu chuyện mai sau
Hằng năm ăn đâu làm đâu
Cũng biết cúi đầu nhớ ngày giỗ Tổ
Trong anh và em hôm nay
Đều có một phần Đất Nước
Khi hai đứa cầm tay
Đất Nước trong chúng ta hài hòa nồng thắm
Khi chúng ra cầm tay mọi người
Đất Nước vẹn tròn, to lớn
Mai này con ta lớn lên
Con sẽ mang Đất Nước đi xa
Đến những tháng ngày mơ mộng
Em ơi em Đất Nước là máu xương của mình
Phải biết gắn bó và san sẻ
Phải biết hóa thân cho dáng hình xứ sở
Làm nên Đất Nước muôn đời...
Những người vợ nhớ chồng còn góp cho Đất Nước những núi Vọng Phu
Cặp vợ chồng yêu nhau góp nên hòn Trống Mái
Gót ngựa của Thánh Gióng đi qua còn trăm ao đầm để lại
Chín mươi chín con voi góp mình dựng đất Tổ Hùng Vương
Những con rồng nằm im góp dòng sông xanh thẳm
Người học trò nghèo góp cho Đất Nước mình núi Bút non Nghiên
Con cóc, con gà quê hương cùng góp cho Hạ Long thành thắng cảnh Những người dân nào đã góp tên Ông Đốc, Ông Trang, Bà Đen, Bà Điểm
Và ở đâu trên khắp ruộng đồng gò bãi
Chẳng mang một dáng hình, một ao ước, một lối sống ông cha
Ôi Đất Nước sau 4.000 năm đi đâu ta cũng thấy
Những cuộc đời đã hóa núi sông ta
Em ơi em
Hãy nhìn rất xa
Vào 4.000 năm Đất Nước
Năm tháng nào cũng người người lớp lớp
Con gái, con trai bằng tuổi chúng ta
Cần cù làm lụng
Khi có giặc người con trai ra trận
Người con gái trở về nuôi cái cùng con
Ngày giặc đến nhà thì đàn bà cũng đánh
Nhiều người đã trở thành anh hùng
Nhiều anh hùng cả anh và em đều nhớ
Nhưng em biết không
Có biết bao người con gái, con trai
Trong 4.000 lớp người giống ta lứa tuổi
Họ đã sống và chết
Giản dị và bình tâm
Không ai nhớ mặt đặt tên
Nhưng họ đã làm ra Đất Nước
Họ giữ và truyền cho ta hạt lúa ta trồng
Họ chuyển lửa qua mỗi nhà, từ hòn than qua con cúi
Họ truyền giọng điệu mình cho con tập nói
Họ gánh theo tên xã, tên làng trong mỗi chuyến di dân
Họ đắp đập be bờ cho người sau trồng cây hái trái
Có ngoại xâm thì chống ngoại xâm
Có nội thù thì vùng lên đánh bại
Để Đất Nước là Đất Nước nhân dân
Đất Nước của nhân dân, Đất Nước của ca dao thần thoại
Dạy anh biết "yêu em từ thở trong nôi"
Biết quý công cầm vàng những ngày lặn lội
Biết trồng tre đợi ngày thành gậy
Đi trả thù mà không sợ dài lâu
Ôi những dòng sông bắt nước từ đâu
Mà khi về Đất Nước mình thì bắt lên câu hát
Người đến hát khi chèo đò, kéo thuyền vượt thác
Gợi trăm màu trên trăm dáng sông xuôi

Người dạy ta nghèo ăn cháo ăn rau
Biết ăn ớt để đánh lừa cái lưỡi
Cái cuốc, con dao, đánh lừa cái tuổi
Chén rượu đánh lừa cơn mỏi, cơn đau
Con nộm nang tre đánh lừa cái chết
Đánh lừa cái rét là ăn miếng trầu
Đánh lừa thằng giặc là chuyện Trạng Quỳnh
Nhưng lạ lùng thay, nhân dân thông minh
Không hề lừa ta dù ca dao, cổ tích
Ta lớn lên bằng niềm tin rất thật
Biết bao nhiêu hạnh phúc có trên đời
Dẫu phải cay đắng dập vùi
Rằng cô Tấm cũng về làm hoàng hậu
Cây khế chua có đại bàng đến đậu
Chim ăn rồi trả ngon ngọt cho ta
Đất đai cỗi cằn thì người sẽ nở hoa
Hoa của đất, người trồng cây dựng cửa
Khi ta đến gõ lên từng cánh cửa
Thì tin yêu ngay thẳng đón ta vào
Ta nghẹn ngào, Đất Nước Việt Nam ơi
Em nghe không trái thị đã rơi xuống tay người
Trái không chỉ rơi vì sức hút đất đai
Trái rơi vì tay người ao ước
Khi trái chạm tay người và người ấm ủ
Thì lừng hương và cô Tấm bước ra
Đi trả thù và sống Tự do
Không rơi xuống bùn, ôi trái thị quê ta
Để bùn lấm và thành bùn vạn kiếp
Rơi vào tay người, đó là định luật
Của đấu tranh và nhân nghĩa Việt Nam
Tuổi trẻ ơi trong sương gió tháng năm
Ta đã lớn rồi, chín đầy hy vọng
Hãy ngã xuống tay nhân dân, hỡi sắc vàng của nắng
Hỡi hương thơm của nồng mặn mồ hôi..
Hãy ngã vào tay nhân dân, đừng vãi đừng rơi
Đừng do dự, đừng hoài nghi nữa
Hãy yêu nhân dân và nghe người nhắn nhủ
Hãy tìm sức mạnh trên cơ thể nhân dân
Nhân dân đang đi lên đội ngũ trùng trùng
Thế vô tận của nghìn năm giết giặc
Lửa đã cháy hồng hào mặt đất
Mùa chín tình yêu, mùa chín hận thù
Không bao giờ xương máu phải bơ vơ
Ôi sông núi uy nghi ngàn dặm đất
Có nghe tiếng chúng con: Xin có mặt
Nguyện làm người xung kích của quê hương
Đấy tiếng hát chúng con: tiếng hát xuống đường! "
(trường ca Đất nước của Nguyễn Khoa Điềm)

Chủ Nhật, tháng 12 09, 2007

GREEN FIELDS

Once there were green fields kissed by the sun
Once there were valleys where rivers used to run
Once there were blue skies with white clouds high above
Once they were part of an everlasting love

We were the lovers who strolled through green fields


Green fields are gone now, parched by the sun
Gone from the valleys where rivers used to run
Gone with the cold wind that swept into my heart

Gone with the lovers who let their dreams depart
Where are the green fields that we used to roam




"ll never know what made you run away
How can I keep searching when dark clouds hide the day
I only know there"s nothing here for me
Nothing in this wide world, left for me to see.

Still I"ll keep on waiting until you return
I"ll keep on waiting until the day you learn
You can"t be happy while your heart"s on the roam
You can"t be happy until you bring it home
Home to the green fields and me once again.

Thứ Bảy, tháng 12 08, 2007

TƯƠNG PHẢN

Bản tin ngày 8.12 của Vnexpress đưa tin:
Hàng 'độc' Lamborghini Gallardo SE cập cảng Việt Nam. Nên nhớ, chỉ có 250 chiếc phiên bản đặc biệt Gallardo SE được bán ra trên toàn thế giới và một trong số đó có mặt tại Sài Gòn vào tối 7.12, với số thứ tự 249. Với giá sau thuế 141.500 euro tại châu Âu vào thời điểm ra mắt, nếu tính theo tỷ giá hiện nay, Gallardo SE trị giá 207.098 USD. Vẫn chưa biết giá tại Việt Nam sẽ là bao nhiêu !

Trước đó, cũng hãng nầy loan nhiều tin khác liên quan đến những “siêu xe” có mặt tại Việt Nam:
- Hai ngựa chiến Ferrari F360 và F430, bò tót Lamborghini Gallardo và Audi R8 tụ họp bên cạnh "hàng độc" LS600hL cùng Hummer H3 limounsine.
- Chiếc Audi R8 về TP HCM hồi giữa tháng 9. Audi R8 là đối thủ của Porsche 911 Carrera 4S, Aston Martin V8 Vantage hay BMW M6. Điều ấn tượng với dân chơi xe Việt Nam là ít ai ngờ R8 lại xuất hiện nhanh đến vậy, bởi với sản lượng chỉ khoảng 15 chiếc mỗi ngày, việc tậu nó ở ngay các thị trường lớn là điều không dễ. R8 mất 4,6 giây để tăng tốc 0-100 km/h, vận tốc tối đa 301 km/h.
- Lamborghini Gallardo, chiếc siêu xe đã làm nên cơn "địa chấn" trong làng chơi ôtô khi xuất hiện đột ngột tại Việt Nam vào đầu tháng 5. Gallardo được Lamborghini sản xuất từ năm 2003, trang bị động cơ V10 dung tích 5.0 lít. Chỉ sau 3 năm có mặt, có tới 5.000 chiếc Gallardo được ra lò và là mẫu bán chạy nhất trong lịch sử của Lamborghini. Nó là đối thủ của Ferrari 360 Modena
- LS600hL không xếp vào dòng siêu xe nhưng nó nổi tiếng nhờ khả năng chơi xe thời thượng của các đại gia Sài Gòn. Mới chỉ ra mắt hồi tháng 5 nhưng LS600hL nhanh chóng có mặt tại Việt Nam. Đây là chiếc hybrid xăng-điện đắt nhất thế giới với giá tại Mỹ khoảng 124.000 USD.
- F430, mẫu xe mà Ferrari thay thế cho F360. Ferrari F430 sử dụng động cơ xăng V8 dung tích 4,3L, công suất 483 mã lực, tăng tốc từ 0 lên 100 km/h trong 4 giây và đạt tốc độ cực đại 315 km/h. Giá của F430 tại Mỹ vào khoảng 170.000 USD.

Dân ta quả là có nhiều người giàu thiệt. Nhưng ngẫm lại, việc tôi không thể nào lý giải được cái sự giàu có kiểu này mới là nghịch lý !

Tôi chỉ có thể lý giải được bài toán lời lỗ của cô gái bán dưa lê hoàng kim bên vệ đường vào rừng U Minh Thượng. Một thau dưa giá vài nghìn đồng một ký. Chỉ cần một vài du khách chợt đến như chúng tôi là thằng bé đen nhẻm nầy có thể có tiền mua vài phong kẹo, vài bịch cốm nổ thay vì gặm mãi trái dưa để miệng mũi tèm lem như thế này đây !
Thằng bé nhìn mãi chiếc xe tụi tôi đi. Trong mắt nó ắt hẳn đây là “siêu xe” còn hơn cả cách tụi tôi nhìn chiếc Lamborghini vàng choé vừa cập cảng Sài Gòn lúc nầy đây.



TÔI YÊU ĐẤT NƯỚC TÔI

1. Câu chuyện sáng nay của con tôi và tôi bàn luận là chuyện Hoàng Sa và Trường Sa. Nói thêm một chút - con tôi vốn mê Lịch Sử, ghiền đọc báo và xem thời sự trên tivi. Nó thuộc vanh vách chuyện Đông, chuyện Tây, chuyện Ta, chuyện Tàu. Và cái mừng nhất là nó có chính kiến và biết bảo vệ lý lẽ của mình đến cùng, đôi khi rất cực đoan ! Con tôi nay đã bước qua tuổi 16, tóc tai cũng vuốt keo dựng đứng, áo quần, giày dép cũng model nầy nọ, lỗ tai lúc nào cũng lủng lẳng head phone vì mê rock… Vậy nên, bạn bè tôi biết chuyện nó mê Lịch Sử ai cũng lấy làm lạ. Riêng tôi rất mừng. Sáng nay lại càng mừng hơn, khi nhận ra con mình đã đủ độ lớn để tôi có thể trò chuyện, bình luận mọi chuyện thế sự với nó như bạn bè.
Trở lại chuyện Hoàng Sa, Trường Sa vì nhân chuyện này lại bàn đến lòng yêu nước. Tôi yêu đất nước nước tôi – đó là lẽ thường tình của bất cứ mọi công dân nào. Có một dịp tôi được ngồi nghe, ngồi ghi chép lại câu chuyện của 2 nhân vật rất nổi tiếng - (tôi sẽ đề cập đến hai nhân vật này trong một cuốn sách sẽ xuất bản) – bàn luận về lòng yêu nước. Một ông bảo: yêu nước đấy là đức tính quý báu nhất của mọi công dân Việt Nam. Ông kia lại bảo: yêu nước phải là bổn phận, còn đức tính quý báu nhất của dân ta chính là phải biết hy sinh.

2. Tôi nhớ năm 1979, khi chiến tranh biên giới Tây Nam nổ ra tôi còn là một con bé học lớp 7, trường Thuận Thành B, Huế. Giai đoạn đó cũng là lúc khó khăn nhất, đói kém nhất. Năm này tháng nọ, lũ học sinh chúng tôi đến trường bằng cái bụng rỗng không. Trưa về một nồi bo bo đen thui hoặc sắn khô luộc hôi mốc chờ sẵn trên bàn. Vậy mà khi nghe thầy cô trong trường nói chiến tranh có thể nổ ra bất cứ lúc nào là tụi bạn tôi lại nhặng xị lên. Nói thêm một chút, năm đó tụi tôi mới có 13 tuổi, bụng đói mốc meo nhưng suy nghĩ chắc hẳn già dặn và có ngọ nguậy hơn nhiều so với thế hệ bây giờ. Cả trường xúm nhau đào… giao thông hào bao quanh khuôn viên trường, bề ngang nửa mét, chiều sâu cả mét. Không biết cái giao thông hào này có cứu được tụi tôi khi quân Tàu qua hay không (mà chắc là không !). Nhưng cái được lớn nhất của cái giao thông hào chính là… kích động được lòng yêu nước của tụi nhãi nhép như chúng tôi. Còn nhớ Lê Viết Tha, lớp trưởng còn chích ngón tay lấy máu để viết đơn xin đi… bộ đội (cái này do ảnh hưởng bởi sách giáo khoa và bởi mấy anh phụ trách Đội đa phần là bộ đội). Còn tôi, năm đó đang sinh hoạt trong đội Nghi thức mẫu của Nhà Thiếu Nhi Huế. Lúc đó, nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm là bí thư Thành đoàn và anh Nguyễn Thanh Minh (CVP báo TN) phụ trách trực tiếp tụi tôi. Còn nhớ nhà thơ lấy chiếc xe đạp cọc cạch chở tôi về nhà để xin phép gia đình cho tôi vào ở hẳn trong Nhà thiếu nhi một tuần để tập kịch. Nội dung vở kịch tôi chỉ nhớ mang máng là một thanh niên xin cha mẹ đi bộ đội, cha mẹ không cho, cô em út (là vai tôi đóng) khóc lóc, năn nỉ phụ anh mình… Đại loại là vậy. Dự kiến, nếu chiến tranh nổ ra chúng tôi sẽ diễn vở kịch nầy tại sân khấu công viên Thương Bạc và tiễn đưa các anh lính ra trận. Một kiểu hào hùng, bi tráng như cuộc diễu binh của Hồng quân Liên Xô. Quá lãng mạn phải không ?
Rất may, điều đó đã không xảy ra. Máu không chảy, người thôi chết, nước mắt không rơi. Mãi đến hàng mấy chục năm sau tôi mới nhận ra đằng sau cái không hào hứng, cái buồn ảm đạm của ba tôi - một Phật tử - lúc đó là tại sao ?

3. Tôi có một nhóm bạn chí thân. Tên làm báo, đứa làm diễn viên, tên viết nhạc, đứa nọ là võ sư, là nhà ngoại giao, lãnh sự, đứa thì đang du học tuốt trời Tây… Nghề nghiệp loạn xà ngầu nhưng chơi với nhau khá bền, lang bạt kỳ hồ cùng nhau cũng lắm. Năm trước cả đám kéo nhau lên cột mốc số 0, cửa khẩu Hữu Nghị Quan, Lạng Sơn. Hôm mới đây, tụi tôi lại đặt chân lên mũi Cà Mau, chót cùng đất nước. Rồi những chuyến Phú Quốc, Bến Tre, Trà Vinh, Phan Thiết, Bình Định, Đà Nẵng, Huế, Hội An, Hà Nội, Sa Pa, Lào Cai, Hoà Bình, Sơn La, Hà Tây…
Được đi mọi miền cùng nhau như vậy đó là hạnh phúc ! Còn nhớ khi cả đám ngồi nhậu tại Mũi Cà Mau, Đ.H đang ở Washington gọi về í ới: “Trời ơi, tui thèm cái cảm giác này quá” ! Thằng em kiến trúc sư với biệt danh “VDC” thì cứ gào lên: “Oh My God” ! C.M.H thì khá… loãng moạn khi lầm bầm: “Trời, nước tui đẹp dzậy dó hả” ! Nếu luận theo suy nghĩ của người nổi tiếng tôi đã nhắc hồi trên thì xem như tôi và tụi bạn của tôi đã làm tròn bổn phận của mình là yêu nước.
Trở lại chuyện Hoàng Sa, Trường Sa hiện đang là thời sự của các blogger. Mỗi người có một quan điểm và một cách nhìn khác nhau. Cái mừng nhất là ít ra cộng đồng đã không thờ ơ với đất nước của mình. Và đó cũng là cách để họ thể hiện lòng yêu nước có phải không ? Giờ thì tôi lại mong, có một ngày nào đó cả nhóm bạn tụi tôi lại được phiêu lãng, ngôi uống với nhau một ly rượu trên hai địa danh thiêng liêng này. Hãy cứ ước mơ như vậy đi !
Châu thổ Cửu Long

Mũi Cà Mau, xã Đất Mũi, huyện Ngọc Hiển, Cà Mau

Cột mốc cuối cùng của Tổ Quốc

Đó là hạnh phúc !
Điểm cuối quốc lộ 1A, huyện Năm Căn, Cà Mau

Cửa khẩu Tân Thanh, Lạng Sơn; dãy nhà phía sau là Trung Quốc

Ngọn núi ấy một thời có nàng Tô Thị

Cửa khẩu Hữu Nghị Quan, Lạng Sơn; phía sau barie là Trung Quốc

Cột mốc số 0; điểm đầu quốc lộ 1A, Lạng Sơn

Ải Chi Lăng, Lạng Sơn.

CHUYỆN CHA ÔNG

Tháng 12 năm Giáp Thân 1284, hiệu Thiệu Bảo năm thứ 6, đời Trần Nhân-Tông, đại binh Thoát Hoan tiến đánh Chi Lăng, Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn thất thế đưa quân chạy về Vạn Kiếp. Vua Nhân-Tông thấy thế giặc mạnh, cho mời Hưng Đạo Vương về Hải Dương mà phán rằng "Thế giặc to như vậy, mà chống với chúng thì dân chúng bị tàn sát, nhà cửa bị phá hại, hay là trẫm sẽ chịu hàng để cứu muôn dân ?" Vương tâu: "Bệ hạ nói câu ấy là lời nhân đức, nhưng Tôn-Miếu Xã-Tắc thì sao ? Nếu Bệ hạ muốn hàng, xin trước hết hãy chém đầu thần đi đã, rồi sau hãy hàng !!" Vua nghe thế yên lòng. Hưng Đạo Vương trở về Vạn Kiếp hiệu triệu 20 vạn quân Nam, và thảo bài Dụ chư tỳ tướng hịch văn (Trung văn: 諭諸裨將檄文, thường gọi là Hịch tướng sĩ) để khuyên răn tướng sĩ, đại ý khuyên binh sĩ học tập và rèn luyện võ nghệ, khuyên các tướng học tập trận pháp theo sách Binh thư yếu lược, chuẩn bị cho cuộc kháng chiến chống quân Nguyên lần thứ 2.

Hịch Tướng Sĩ
Ta thường nghe: Kỷ Tín đem mình chết thay, cứu thoát cho Cao Đế; Do Vu chìa lưng chịu giáo, che chở cho Chiêu Vương; Dự Nhượng nuốt than, báo thù cho chủ; Thân Khoái chặt tay để cứu nạn cho nước. Kính Đức một chàng tuổi trẻ, thân phò Thái Tông thoát khỏi vòng vây Thái Sung; Cảo Khanh một bầy tôi xa, miệng mắng Lộc Sơn, không theo mưu kế nghịch tặc. Từ xưa các bậc trung thần nghĩa sĩ, bỏ mình vì nước, đời nào chẳng có ? Ví thử mấy người đó cứ khư khư theo thói nhi nữ thường tình thì cũng đến chết hoài ở xó cửa, sao có thể lưu danh sử sách cùng trời đất muôn đời bất hủ được ?
Các ngươi vốn dòng võ tướng, không hiểu văn nghĩa, nghe những chuyện ấy nửa tin nửa ngờ. Thôi việc đời trước hẵng tạm không bàn. Nay ta lấy chuyện Tống, Nguyên mà nói: Vương Công Kiên là người thế nào ? Nguyễn Văn Lập, tỳ tướng của ông lại là người thế nào ? Vậy mà đem thành Điếu Ngư nhỏ tày cái đấu đương đầu với quân Mông Kha đường đường trăm vạn, khiến cho sinh linh nhà Tống đến nay còn đội ơn sâu ! Cốt Đãi Ngột Lang là người thế nào ? Xích Tu Tư tỳ tướng của ông lại là người thế nào ? Vậy mà xông vào chốn lam chướng xa xôi muôn dặm đánh quỵ quân Nam Chiếu trong khoảng vài tuần, khiến cho quân trưởng người Thát đến nay còn lưu tiếng tốt !
Huống chi, ta cùng các ngươi sinh ra phải thời loạn lạc, lớn lên gặp buổi gian nan. Lén nhìn sứ ngụy đi lại nghênh ngang ngoài đường, uốn tấc lưỡi cú diều mà lăng nhục triều đình; đem tấm thân dê chó mà khinh rẻ tổ phụ. Ỷ mệnh Hốt Tất Liệt mà đòi ngọc lụa để phụng sự lòng tham khôn cùng; khoác hiệu Vân Nam Vương mà hạch bạc vàng, để vét kiệt của kho có hạn. Thật khác nào đem thịt ném cho hổ đói, tránh sao khỏi tai họa về sau.
Ta thường tới bữa quên ăn, nửa đêm vỗ gối, ruột đau như cắt, nước mắt đầm đìa; chỉ giận chưa thể xả thịt, lột da, ăn gan, uống máu quân thù; dẫu cho trăm thân ta phơi ngoài nội cỏ, nghìn thây ta bọc trong da ngựa, cũng nguyện xin làm.
Các ngươi ở lâu dưới trướng, nắm giữ binh quyền, không có mặc thì ta cho áo; không có ăn thì ta cho cơm. Quan thấp thì ta thăng tước; lộc ít thì ta cấp lương. Đi thủy thì ta cho thuyền; đi bộ thì ta cho ngựa. Lâm trận mạc thì cùng nhau sống chết; được nhàn hạ thì cùng nhau vui cười. So với Công Kiên đãi kẻ tỳ tướng, Ngột Lang đãi người phụ tá, nào có kém gì?
Nay các ngươi ngồi nhìn chủ nhục mà không biết lo; thân chịu quốc sỉ mà không biết thẹn. Làm tướng triều đình đứng hầu quân man mà không biết tức; nghe nhạc thái thường đãi yến sứ ngụy mà không biết căm. Có kẻ lấy việc chọi gà làm vui; có kẻ lấy việc cờ bạc làm thích. Có kẻ chăm lo vườn ruộng để cung phụng gia đình; có kẻ quyến luyến vợ con để thỏa lòng vị kỷ. Có kẻ tính đường sản nghiệp mà quên việc nước; có kẻ ham trò săn bắn mà trễ việc quân. Có kẻ thích rượu ngon; có kẻ mê giọng nhảm. Nếu bất chợt có giặc Mông Thát tràn sang thì cựa gà trống không đủ đâm thủng áo giáp của giặc; mẹo cờ bạc không đủ thi hành mưu lược nhà binh. Vườn ruộng nhiều không chuộc nổi tấm thân ngàn vàng; vợ con bận không ích gì cho việc quân quốc. Tiền của dẫu lắm không mua được đầu giặc; chó săn tuy hay không đuổi được quân thù. Chén rượu ngọt ngon không làm giặc say chết; giọng hát réo rắt không làm giặc điếc tai. Lúc bấy giờ chúa tôi nhà ta đều bị bắt, đau xót biết chừng nào ! Chẳng những thái ấp của ta không còn mà bổng lộc các ngươi cũng thuộc về tay kẻ khác; chẳng những gia quyến của ta bị đuổi mà vợ con các ngươi cũng bị kẻ khác bắt đi; chẳng những xã tắc tổ tông ta bị kẻ khác giày xéo mà phần mộ cha ông các ngươi cũng bị kẻ khác bới đào; chẳng những thân ta kiếp này chịu nhục đến trăm năm sau tiếng nhơ khôn rửa, tên xấu còn lưu, mà gia thanh các ngươi cũng không khỏi mang danh là tướng bại trận. Lúc bấy giờ, dẫu các ngươi muốn vui chơi thỏa thích, phỏng có được chăng ?
Nay ta bảo thật các ngươi: nên lấy việc "đặt mồi lửa dưới đống củi nỏ" làm nguy; nên lấy điều "kiềng canh nóng mà thổi rau nguội" làm sợ. Phải huấn luyện quân sĩ, tập dượt cung tên, khiến cho ai nấy đều giỏi như Bàng Mông, Phải huấn luyện quân sĩ, tập dượt cung tên, khiến cho ai nấy đều giỏi như Bàng Mông, mọi người đều tài như Hậu Nghệ, có thể bêu đầu Hốt Tất Liệt dưới cửa khuyết, làm rữa thịt Vân Nam Vương ở Cảo Nhaị Như thế chẳng những thái ấp của ta mãi mãi vững bền mà bổng lộc các ngươi cũng suốt đời tận hưởng; chẳng những gia thuộc ta được ấm êm giường nệm, mà vợ con các ngươi cũng trăm tuổi sum vầy; chẳng những tông miếu ta được hương khói nghìn thu mà tổ tiên các ngươi cũng được bốn mùa thờ cúng; chẳng những thân ta kiếp này thỏa chí, mà đến các ngươi, trăm đời sau còn để tiếng thơm; chẳng những thụy hiệu ta không hề mai một, mà tên họ các ngươi cũng sử sách lưu truyền. Lúc bấy giờ, dẫu các ngươi không muốn vui chơi, phỏng có được không ?
Nay ta chọn lọc binh pháp các nhà hợp thành một tuyển, gọi là Binh Thư Yếu Lược. Nếu các ngươi biết chuyên tập sách này, theo lời ta dạy bảo, thì trọn đời là thần tử; nhược bằng khinh bỏ sách này, trái lời ta dạy bảo thì trọn đời là nghịch thù.
Vì sao vậy ? Giặc Mông Thát với ta là kẻ thù không đội trời chung, mà các ngươi cứ điềm nhiên không muốn rửa nhục, không lo trừ hung, lại không dạy quân sĩ, chẳng khác nào quay mũi giáo mà xin đầu hàng, giơ tay không mà chịu thua giặc. Nếu vậy, rồi đây, sau khi dẹp yên nghịch tặc, để thẹn muôn đời, há còn mặt mũi nào đứng trong cõi trời che đất chở này nữa ?
Cho nên ta viết bài hịch này để các ngươi hiểu rõ bụng ta.