Thứ Năm, tháng 4 17, 2008

TỪ WEB NGÀY 17.4


Sáng.
Tất cả các trang web đều thông tin vụ lễ vật dâng tặng vua Hùng – bánh chưng thì bị mốc, bánh dày thì bị độn mút xốp.

(Phụ chú cho ông bạn già Tr khi ông bạn cứ thắc mắc vụ bánh giầy hay bánh dày thì đúng. Một tờ báo đã giảng giải khá… uyên bác về vụ nầy. Nhưng trên blog của tui thì tui khoái dùng chữ dày hơn. Bởi lẽ, dân miền Nam quen dùng chữ bánh dày, đọc sao viết vậy. Mà bổn báo – à quên… bổn bờ lốc mới đúng – thì đa phần dân miền Nam đọc. Vậy nên, chủ blog cứ bánh dày mà làm tới. He he, đừng thắc mắc làm chi cho mệt nghen bác Tr. Kể bác Tr. Nghe thêm một chuyện. Chủ blog có một ông bạn ở xứ dừa – cũng là bạn già luôn - ổng nghiêm nhặt chuyện chữ nghĩa vô cùng. Một bận, ông già đại nhà văn (mà chủ blog hổng khoái vì cái văn chương uốn éo kiểu cách hổng giống cốt cách Nam bộ) nói với ổng rằng: “Chú mày phải gọi là nấm mối, bởi lẽ cái dấu ^ trên đầu chữ nấm nó thể hiện cái hình hài vốn có của cây nấm. Cái tài tình của chữ Việt là vậy nghen chưa” (Mẹ ơi, nếu ông già Nguyễn Tuân – văn vẻ Bắc Kỳ - mà nói vậy thì chủ blog còn bái phục. Đằng này !). Bác Tr. biết ông bạn già của chủ blog trả lời sao không: “Chú Bốn à, từ hồi bà ngoại của con đến thời má của con kêu vậy, mà dân xứ mình cũng kêu bằng núm mối hết. Núm thì kêu là núm, uốn miệng mệt lắm chú ơi”. Ông bạn già nầy cũng hết sức bực bội khi chú Bốn cứ dạy cách ăn núm mối là phải chiên với bơ hết sức lai căng. Mà tình thiệt là, mỗi khi qua xứ dừa, chủ blog cứ được ông bạn già đãi núm xào mỡ trơn nêm tí muối ớt là xong. Ngon hết biết).

Phụ chú hơi dài, trở lại với chuyện phẩm vật. Từ lâu chủ blog đã hết sức dị ứng với mấy cái trò kỷ lục kiểu này rồi. Mới hôm Tết, dân Sài Gòn vốn dễ tính và chuộng cái lạ đã phải sốc khi thấy cái bánh tét… cũng kỷ lục luôn … khi cắt ra cứ như một bãi đen thùi lùi, nhão nhoẹt. Phản cảm nhất là cái bánh chưng kỷ lục năm nào, rước đi cống Tổ mà dân tình nào có thấy cái màu xanh lá dong quen thuộc. Chỉ thấy một cái kiệu chần dần phủ tấm vải đỏ chót in logo của hãng nước ngọt C. nổi tiếng toàn cầu ! Thằng con của chủ blog vốn cực đoan, từ sau vụ đó đến nay đã mấy năm rồi nhưng cu cậu vẫn uông P. và nhất quyết không đụng đến C. (Nhưng con ơi. Bác Lý Chánh Trung đã nói – Không Pepsi thì Coca. Không Coca thì Pepsi. Nhưng tất cả đều là… Cola. Dân chủ quá xá xà xa). Mấy bác lãnh đạo cũng dễ tính quá. Nếu phẩm vật đó của đơn vị nào thì cứ danh nghĩa đơn vị đó mà đem đi cung tiến cho đức Tổ (còn cung như thế nào để Tổ đãi hay Tổ phạt là chuyện của họ). Đằng này, mang danh là của người dân Sài Ghềnh thì quá đáng thật.

Hồi sáng, ngồi café tán gẫu. Đồng nghiệp nào cũng dị ứng như chủ blog. Riêng chủ blog thì đề xướng một ý. Hay là Nhà nước cứ nhân ngày giỗ Tổ vua Hùng thì mở hầu bao lì xì cho mỗi thần dân 50 ngàn, mà thôi nước còn nghèo, 20 ngàn đồng cũng được đặng mỗi gia đình lấy đó mà bày biện một mâm cơm cúng Tổ. Như gia đình chủ blog đây có 3 người sẽ được 60 ngàn đồng. Thời buổi vật giá leo thang nhưng nếu vén khéo cũng xong. Thử tính, ra chợ Xuân Khánh mua 10 ngàn đồng chè xôi nước, 10 ngàn bánh quy (giống bánh dày), 10 ngàn đồng xôi vò, 5 ngàn đồng hoa, 5 ngàn đồng nhang đèn, 5 ngàn đồng trà. Cũng còn 15 ngàn cho một mâm ngũ quả. Quá ư bản sắc dân tộc ! Bấm sơ một con tính mới biết số tiền chi cho cả nước bày biện đám giỗ tốn khoảng 160 tỷ đồng. Một con số lớn nhưng biết kiếm cũng ra. Rút kinh nghiệm từ pháo hoa có thể thấy nó khả thi. Ban đầu tính nói giỡn, ai dè nghĩ riết rồi chủ blog tự thấy sao mình lại có thể… thông minh đột xuất đến vậy ! Ha ha !

Chiều.
Ngồi dài cổ chờ tin bài. Lướt qua vài blog xem chơi. Có nhiều blog tào lao quá thể, kẻ tung, người hứng những chuyện chẳng ra làm sao. Thôi dẹp qua ! Chẳng đáng phí thời giờ.

Đọc trên blog của C.K ở TN Tuần san một mẩu chuyện mà mình cứ cười bò lăn: “Có hai kẻ bộ hành lê bước một cách khó nhọc trên đại lộ. Một kẻ với vẻ mặt đầy ta thán chỉ xuống cái chân và thốt lên - Chiến tranh Vùng Vịnh. Cách đây 17 năm ! Kẻ kia cũng vẻ mặt biểu cảm hổng kém chỉ xuống cái chân đang lết thốt lên - Cứt chó. Cách đây 20 mét !”. Ha ha ! Cười xong lại thấy lòng chùng xuống vì ngộ ra điều ẩn đằng sau cái vỏ ngữ nghĩa thứ nhất của câu chuyện vừa nêu.

Đọc trên blog của Đ.H ở TN Quốc tế thấy blog nầy trích đăng từ báo chí xứ Việt một mẩu thống kê: “Kết quả xét nghiệm các mẫu tiền mệnh giá 500 đồng, 1.000 đồng và 2.000 đồng lấy từ các quán ăn đường phố thì 100% bị nhiễm khuẩn e.coli. Trong khi đó, các loại tiền mệnh giá lớn hơn như 5.000 đồng, nhiễm 94%, 10.000 đồng nhiễm 86%, 2 loại tiền mệnh giá 20.000 đồng và 50.000 đồng nhiễm khuẩn E.coli đều ở mức lần lượt là 65%- 70%”. Lục trong ngăn bóp chuyên đựng tiền đi chợ hàng ngày của chủ blog thấy có: 1 tờ mệnh giá 100 ngàn, 2 tờ mệnh giá 20 ngàn, 2 tờ mệnh giá 10 ngàn, 1 tờ mệnh giá 2 ngàn, 1 tờ mệnh giá 1 ngàn, 1 tờ mệnh giá 500. Vậy là thậm nguy to rồi. Nguy cơ nhiễm khuẩn E.coli của chủ blog là … 100%. He he. Hồi sáng, vô văn phòng sớm, chủ blog ra tay hầm một nồi bông atiso với xương heo, thêm một nồi thịt kho tiêu để bà con ăn sáng. Thấy bác Thái Nguyên và bác Khoa Chiến ăn nhiệt tình quá ! Toi mạng rồi các bác ơi (!). Lại lướt web thấy có tin, các công nhân ở Cà Mau còn hổng có tiền để mà cầm, thẻ ATM thì đem đi cầm cố. Họ muốn có tiền – dù có bị nhiễm khuẩn E.Coli 200% cũng được mà nào có cơ hội !

Tối.
Ngồi gõ bờ lốc cốc nhặng xị. Vẫn không quên nét mặt của một đồng nghiệp cũ vừa gặp lại. Vẫn không quên cái comment của một đứa vừa là đồng nghiệp cũ, vừa là thằng em. Cái buồn ẩn nhẩn đằng sau khuôn mặt và đằng sau những dòng chữ. Hay là do mình nhạy cảm quá ! Biết là thời gian không quay lại bao giờ. Vậy mới buồn !

ĐẶNG TIẾN VIẾT VỀ NHẠC PHẢN CHIẾN CỦA TRỊNH

TRỊNH CÔNG SƠN Tiếng hát Hoà Bình
Đặng Tiến

Báo Văn Học, California, số 39, tháng 4-1989, có ghi lại một buổi tọa đàm về bộ truyện Mùa Biển Động của Nguyễn Mộng Giác, nhà văn Nhật Tiến đã phát biểu ngoài đề:
"Nói về tác phẩm văn nghệ mà ảnh hưởng rõ nét nhất, tôi nghĩ có lẽ mình chỉ có nhạc Trịnh Công Sơn, nó gây cái tâm lý phản chiến. Còn tác phẩm văn thơ của chúng ta nó chỉ bàng bạc thôi". Anh còn khẳng định: "nó đi thẳng vào đời sống". Nhà văn Hoàng Khởi Phong vùa vào: "Riêng với nhạc Trịnh Công Sơn, tôi nghĩ có đi thẳng vào lòng người" (tr. 55).

Cái thời làm nhạc phản chiến ... thời đại bác ru đêm ...

Dùng chữ nhạc phản chiến, theo kiểu anti-guerre, anti war, là nói cho gọn, và đã có người phản bác, cho rằng mông lung, vì người nghệ sĩ chân chính nào mà không chống chiến tranh ? Ngoài ra, những ca khúc Trịnh Công Sơn tố cáo chiến tranh, gào gọi hoà bình còn bày tỏ khát vọng thống nhất đất nước, tình tự dân tộc, tình yêu nhân loại, niềm tin vào cuộc đời, tình người và hạnh phúc lứa đôi. Những tình cảm này đan quyện vào nhau. Hơn nữa, một số nhạc tình thuần tuý, nội dung không quan hệ gì đến chiến tranh, khi nghe trong đám đông, cũng tạo nên một cảm giác thời thế, từ một thời phản chiến.

Vì vậy, gọi nhạc "phản chiến" là nói tắt, trong điều kiện bất túc của ngôn ngữ. Gọi cách khác, là ca khúc tranh đấu cho hoà bình, tuy dài dòng mà vẫn không đủ ý.

Nói chung, những ca khúc "phản chiến" của Trịnh Công Sơn gia tăng số lượng và cường độ dài theo cuộc chiến, đồng thời cũng chuyển mình theo từng giai đoạn ngắn của thời cuộc thập niên 1963-1973. Nhưng là tiếng nói tự phát, phản ứng tự nhiên của một cá nhân, một công dân, không thuộc đảng phái hay tổ chức chính trị nào. Đây là điều kỳ lạ trong hoàn cảnh chính trị thời đó và chính nó đã tạo ra hào quang của Trịnh Công Sơn: người ta hát, và yêu Trịnh Công Sơn, tạo ra hiện tượng Trịnh Công Sơn, một là vì ca khúc của anh đáp ứng lại những khát vọng của thời đại, hai là người nghe, trực cảm rằng những lời ca ấy không mang một ý đồ chính trị nào.

Bây giờ, hơn ba mươi năm sau các sự cố, nghe lại ca khúc Trịnh Công Sơn, so sánh với những yêu sách thời đó, chúng ta có thể tin được vào chứng từ của họa sĩ Bửu Chỉ, bạn thân với Trịnh Công Sơn trong nhiều giai đoạn, trước và sau 1975,

"Tắt một câu, trong dòng nhạc phản chiến, của mình Trịnh Công Sơn đã chẳng có một toan tính chính trị nào cả. Mà tất cả làm theo mệnh lệnh của con tim mình (...). Trái tim nhân ái, nhạy cảm, chỉ biết nói lên những cảm xúc nồng nhiệt của mình đối với quê hương, dân tộc, dù thiếu vắng một thái độ chính trị, nhưng trung thực. Nghĩa là tự đáy lòng mình thì mình nói"
Bửu Chỉ đã tham dự vào Phong Trào Sinh Viên đấu tranh cho hòa bình, trực diện chống đối chính quyền Sài gòn, bị bắt 1971 và chỉ được phóng thích năm 1975. Anh sinh hoạt với Trịnh Công Sơn tại hội văn nghệ Bình Trị Thiên những năm 75-79, cho đến nay vẫn được xem như là một tiếng nói trung thực. Khi Bửu Chỉ nhận thấy - hay thật ra là phản ánh một dư luận - cho Trịnh Công Sơn là "thiếu vắng một thái độ chính trị, nhưng ..." thì chúng ta có thể hiểu thêm được một hoàn cảnh, để từ đó tìm hiểu vị trí Trịnh Công Sơn trong thế sự, giữa những âm thanh và cuồng nộ.

Và phải chăng vì chỉ viết "theo mệnh lệnh của con tim", chứ không theo một thứ mệnh lệnh khác, mà ngày nay những ca khúc tranh đấu của Trịnh Công Sơn, dù đã đóng góp lớn lao vào biến chuyển của đất nước, đã không được in lại, hát lại trong nước, như một số tác phẩm khác, của các vị Tôn Thất Lập, Trần Long Ẩn, v.v. Và những văn bia, những kỷ yếu chính thức ghi lại thành tích cách mạng thời đó, ngày nay cũng không nhắc nhở gì đến Trịnh Công Sơn.

Ngoài ra, nếu nhạc thời thế của Trịnh Công Sơn xuất phát từ cảm xúc, thì ta có thể lần theo lịch trình sáng tác để tìm đến những biến chuyển trong tâm tư tác giả trước thời cuộc sôi động lúc đó. Tuy nhiên chúng tôi khó nắm chắc thời điểm thành hình của từng ca khúc, dù đã cố gắng. Chỉ mong đề xuất những nét chính.

Sau đệ nhị thế chiến, nhiều tư trào hoà bình trên thế giới đã tạo ra giòng thơ nhạc phản chiến như bài Barbara, thơ Prévert, Kosma phổ nhạc, đã thịnh hành tại Miền Nam những năm 1950, với lời ca thật mạnh "ôi ngu xuẩn chiến tranh" nguyên văn tiếng Pháp khá tục "quelle connerie la guerre". Tiếp đó, là những bài hát phản chiến thô bạo của Boris Vian đã vang dội một thời trong tuổi trẻ Trịnh Công Sơn. Theo sau là nhạc phẩm của Bob Dylan và Joan Baez. Chúng tôi đã nhắc qua điều này trong một bài trước đây.

Có lẽ những suy nghĩ về dân tộc, đất nước, số phận con người trong chiến tranh đã manh nha từ lâu ở Trịnh Công Sơn, và đã được khơi động từ những biến cố tại Huế và miền Trung năm 63, mà bạn bè anh đã tham gia tích cực và sôi nổi. Bản thân Trịnh Công Sơn không dự cuộc trực tiếp, nhưng khó có thể nói là không giao động. Sau những bản nhạc tình đã nổi tiếng, thì 1964, Trịnh Công Sơn đưa vào Lời Mẹ Ru một vài âm hưởng xót xa, báo hiệu cho những ru khúc đau thương về sau: Lời mẹ ru con nghe ra nỗi niềm Đời mẹ ru con mây kia cũng buồn Con ngủ trên mây Tiếng khóc ban đầu còn đau, còn đau Ru con khôn lớn ... Con Rồng cháu Tiên Một đời ru con, nên mắt ưu phiền.

Về thời điểm, tư liệu của Hoàng Nguyên Nhuận, bút danh của Hoàng văn Giàu, xác nhận "năm 1963, trong lúc anh chị em chúng tôi lận đận trong tù, sau chiến dịch Nước Lũ thì Trịnh Công Sơn vẫn còn mơ màng Nhìn Những Mùa Thu Đi. Đến năm 1964, sau khi nhập Tuyệt Tình Cốc, thì Trịnh Công Sơn hầu như đã trở thành một người mới".

Lối hát ru Việt Nam, như ru con Nam Bộ, thỉnh thoảng cũng có câu thắt thẻo ruột gan, nhưng ít khi diễn tả buồn đau trong thân phận làm người như ở Trịnh Công Sơn, càng về sau càng da diết.

Vết Lăn Trầm, 1965, là một ca khúc đậm đặc phong cách Trịnh Công Sơn, đau thương và huyền bí:

Vết lăn trầm vết lăn trầm Hằn lên phiến đá nâu thêm ưu phiền Như có lần chim muông hằn dấu chân Người đi phiêu du từ đó chưa thấy về quê nhà Người chợt nhớ mình như đá Đá lăn vết lăn trầm Từ cơn đau ấy lưu thân mỏi mòn Ôi mắt thầm van xin lời thánh đêm Bài ca dao trên cồn đá Trên ngai vàng quê hương ...

Ca từ rệu rã, u hoài, xa vắng, nhưng cô đọng cả tâm giới Trịnh Công Sơn, lúc ấy và về sau. Về sau, sẽ có hằng vạn chuyến xe claymore lựu đạn, hằng vạn tấn bon trút xuống đầu làng, cũng chỉ là âm vang lăn trầm vết đá. Hoàng Phủ Ngọc Tường, bạn thân Trịnh Công Sơn đã tinh ý nhận xét:

"Vết Lăn Trầm bắt đầu tiếp cận nỗi bất hạnh của một tuổi trẻ bị cuốn hút vào cơn lốc của chinh chiến, và đây là bài hát mở đầu nội dung phản chiến của nhạc Trịnh Công Sơn "

Chọn 1965 làm thời điểm cho nhạc thời thế Trịnh Công Sơn, còn có những lý do khác : đó là cao điểm của chiến tranh Việt Nam, thời của những Người Chết Trận Đồng Xoài, Pleime ... thời người Mỹ đổ bộ lên Miền Nam, bắt đầu ném bom Miền Bắc. Cũng là cao trào tranh đấu miền Trung trước khi bị dập tắt vào năm 1966.

Thời đó, ca khúc Trịnh Công Sơn, nhạc tình và nhạc tranh đấu, được in ronéo, chuyền tay. Năm 1966, nhà An Tiêm xuất bản tập Ca Khúc Trịnh Công Sơn, Thần Thoại Quê Hương, Tình Yêu và Thân Phận, 12 bài, ngoài Tuổi Đá Buồn làm từ 1961, những bài khác làm vào 1965-1966, đều mang nội dung : thân phận trong chiến tranh.

Mùa hè 1965, trong năm 1966 và sang 1967, Trịnh Công Sơn đã sáng tác một loạt ca khúc chống chiến tranh nổi tiếng: Người con Gái Việt Nam Da Vàng, Đại Bác Ru Đêm, Tình Ca của Người Mất Trí, ... Tác giả tự ấn hành lấy, do đó không ghi năm xuất bản, thành tập Ca Khúc Da Vàng. Về sau, sau Mậu Thân, 1968, anh thêm 2 bài: Hát Trên Những Xác Người và Bài Ca Dành cho Những Xác Người, ghi là Ca Khúc Da Vàng 2, dự tính in trong tập Kinh Việt Nam, tự xuất bản 1968. Những bản in lại về sau, không thấy 2 bài này. Vậy ta có thể xem Ca Khúc Da Vàng gồm 12 hay 14 bài, tùy phương pháp.

Gần đây Khánh Ly có hát và phát hành ba đĩa hát CD lấy tên Ca Khúc Da Vàng I (1996), II (1998) và III (1999), mỗi CD gồm 10 bài, có đủ 14 bài da vàng chính danh. Những bài khác là nhạc phản chiến nổi tiếng của Trịnh Công Sơn.

Tập Kinh Việt Nam mở đầu bằng lời tựa, tác giả bày tỏ khát vọng hoà bình, viết 1968, có lẽ sau Mậu Thân và tin tức về hòa hội Paris; tập nhạc gồm có 12 bài, bắt đầu bằng Dân Ta Phải Sống và khép lại với Nối Vòng Tay Lớn.

Năm 1970, dưới tên nhà xuất bản Nhân Bản, anh tự ấn hành Ta Phải Thấy Mặt Trời, gồm 11 bài, như: Việt Nam ơi hãy Vùng Lên, Huế Sài Gòn Hà Nội, v. v.

Năm 1972, sau Mùa Hè Đỏ Lửa, anh cho in tập Phụ Khúc Da Vàng, vẫn dưới tên nhà xuất bản Nhân Bản, gồm 9 bài: Một Ngày Vinh Quang, Một Ngày Tuyệt Vọng, Xác Ta Xác Thù, Chưa Mất Niềm Tin. ...

Bửu Chỉ sau khi nhắc lại thư mục, đã ghi : "tổng kết 5 tập với 58 ca khúc, chưa kể những bài rời được sáng tác ngay trong những cuộc xuống đường, cùng thanh niên, sinh viên, học sinh Huế"
Trong một tiểu luận Cao học đệ trình tại Đại Học Paris 7, 1991, Michiko Yoshi, cũng là bạn , được Trịnh Công Sơn giúp đỡ và hướng dẫn, đếm được 69 bài phản chiến. Trên tổng số 136 bài làm từ 1959 đến 1972 mà cô ấy sưu tầm được, tỷ lệ là 51 %. Nếu chỉ tính từ 1965 đến 1972, tỷ lệ còn cao hơn nữa. Nghĩa là trong một thời gian dài, thời gian sáng tác khoẻ nhất, rung cảm chính của Trịnh Công Sơn là thời thế. Và ngược chiều, chính những ca khúc kêu gọi hoà bình đã làm nên danh tiếng Trịnh Công Sơn, đã tạo nên huyền thoại Trịnh Công Sơn, trong một thời điểm nhất định của miền Nam Việt Nam vào những năm 1966-1972.

Thời điểm sáng tác hay in ấn một nhạc bản không quan trọng bằng việc công chúng phổ biến, hưởng ứng những bài hát đó trong giai đoạn, hoàn cảnh nào. Chúng tôi ghi cặn kẽ thời điểm để làm tư liệu về sau.

Hoàng Nguyên Nhuận nhắc lại "nếu Huế là thánh địa của Phật Giáo và nếu bản nhạc Phật Giáo Việt Nam của Lê Cao Phan là nhịp đạo hành của thanh niên Phật tử, thì Trịnh Công Sơn chính là nhịp đập con tim của phong trào thanh niên trên đường vận động hoà bình, độc lập và an lạc cho đồng bào đồng loại " tại các thành phố miền Nam từ 1963 đến 1966.

Từ 1965, theo trí nhớ Đinh Cường, Trịnh Công Sơn mới trực tiếp "xuống đường" tham dự vào những buổi hát của sinh viên, học sinh Sài Gòn, bắt đầu tại trước viện Đại Học Sài Gòn, rồi từ khuôn viên trường Đại Học Văn Khoa. Sau đó Trịnh Công Sơn thường hát với Khánh Ly, từ 1967, theo lời Khánh Ly kể, cho đến sự cố nổ súng tại trường Đại Học Văn Khoa cuối năm 1967. Sau biến cố này, Sơn thôi đi hát "cho đồng bào tôi nghe" hát trước quần chúng đông đảo, chủ yếu là thanh niên, sinh viên Sài Gòn. Nhưng vẫn còn về hát cho sinh viên Huế cho đến 1970-1971.
Nhiều người đã nhắc đến giai đoạn này, nhưng ít ai còn nhớ cụ thể : Trịnh Công Sơn và Khánh Ly đã hát những bài gì. Michiko còn giữ cuộn băng thu lại một buổi hát cộng đồng, có lẽ một trong các buổi cuối cùng tại Quán Văn Sài Gòn, tháng 12 năm 1967, với cả không khí quần chúng:

Trịnh Công Sơn hát: Người Già Em Bé, Đêm Bây Giờ Đêm Mai, Ngày Dài Trên Quê Hương, Ngụ Ngôn Mùa Đông, Tôi Sẽ Đi Thăm, Đi Tìm Quê Hương, Người Con Gái Việt Nam Da Vàng.

Khánh Ly hát: Diễm Xưa, Mưa Hồng, Ru Em Từng Ngón Xuân Nồng, Gọi Tên Bốn Mùa, Còn Tuổi Nào Cho Em, Tình Ca Của Nguời Mất Trí, Xin Cho Tôi, Xin Mặt Trời Ngủ Yên, Tuổi Đá Buồn.

Trịnh Công Sơn và Khánh Ly song ca: Nhìn Những Mùa Thu Đi, Ca Dao Mẹ.

Chúng ta lưu ý đến nội dung xen kẽ của những ca khúc, được trình diễn trong các buổi hát công cộng, đông đảo đến hàng trăm, hàng ngàn người nghe hay trong những cuộc họp mặt bỏ túi giữa bạn bè. Tình khúc được hát giữa những bài chống chiến tranh, tự dưng cũng mang tác dụng "phản chiến". Đây là hậu quả tâm lý tự nhiên, mà ngày nay lý thuyết liên văn bản đã thừa nhận. Những bài hát ca ngợi tình yêu, tiếc thương hạnh phúc, những Diễm Xưa, Tuổi Đá Buồn bỗng nhiên mang một nội dung hòa bình. Từ đó xác định được trong sự nghiệp Trịnh Công Sơn bài nào là nhạc "phản chiến", không phải là việc đơn giản về mặt thực tế. Dù rằng về mặt sách vở, ta có thể đếm được 58 bài như Bửu Chỉ hay 69 bài như Michiko.

Làm sao em biết bia đá không đau...
Này em đã khóc chiều mưa đỉnh cao...
Tóc em như trời xưa đã qua đi ngàn năm...
Tuổi nào ngồi khóc tình đã nghìn thu...
Rồi mùa xuân không về, mùa thu cũng ra đi ...

Những câu hát, trích từ tiếng hát Khánh Ly thời 1967 ca ngợi tình yêu, nhưng có nhất thiết là tình yêu trai gái ?

Gọn hơn nữa: tình yêu như trái phá, là chuyện tình yêu, hay trái phá ?
Về ý nghĩa, âm hưởng của một bài hát tuỳ thuộc vào bối cảnh, trong lý thuyết liên văn bản. Nhìn Những Mùa Thu Đi là một bản nhạc tình, không can dự gì đến thế sự. Nhưng Thái Kim Lan đã kể lại một kỷ niệm súc tích: Ngày 20/8/1963, chính quyền Sài Gòn tấn công vào chùa chiền khắp nước, chị bị bắt tại Huế cùng với nhiều thanh niên sinh viên Phật tử và nhiều người bị tình nghi, như Hoàng Phủ Ngọc Tường, tình cờ trong túi có mảnh giấy ghi bài hát:

"Huế dạo ấy đang độ vào thu, ban đêm mưa sầm sập trên mái ngói, buổi sáng sớm trời trong trẻo, một thứ trong suốt như đóng đinh vạn vật dừng lại ở một điểm cố định, cây bàng độc nhất trong sân đứng với mấy chiếc lá đỏ trên cành, chúng tôi ngồi 'tay trơn' trên nền nhà, trẻ măng là mái tóc và vầng trán, trẻ măng là sự ôm ấp những lý tưởng, những hoài vọng, những ước ao, những chờ đợi của tuổi hai mươi - và chúng tôi đã đếm ngày tháng bằng ' Nhìn Những Mùa Thu Đi' ..."
Và trong tù, sáng trưa, chiều tối, ngày này qua ngày khác, các bạn trẻ đã huýt sáo hay ngân nga bài này.
"Trong đời tôi, đã nghe và đã hát một bài chưa bao giờ nhiều lần và trong một quãng thời gian dài liên tiếp trong 3 tháng như thế (...)
Có thể nói hành trình ca khúc Trịnh Công Sơn thực sự bắt đầu từ 'Nhìn Những Mùa Thu Đi' chứ không phải 'ướt mi', dù 'ướt Mi' đã làm cho người ta biết đến Sơn".

Chị nói vậy là chủ quan. Nhưng vô hình trung, đã tiết lộ một sự thật: Nhìn Những Mùa Thu Đi có thể là tác phẩm đầu tay, dưới dạng thức một bài thơ, làm từ 1957, Trịnh Công Sơn đã tự phổ nhạc nhiều lần, nhưng chỉ mới chép tay cho bạn bè. Do đó mà tình cờ nó nằm trong túi Hoàng Phủ Ngọc Tường đêm 20/8/1963, khi anh đang ngủ ở nhà thì bị công an đến bắt. Nếu không có sự cố, có thể là bản thảo sẽ bị thất lạc, như nhiều sáng tác của Trịnh Công Sơn, có thể lên đên 50 % trên tổng số.

Về nội dung bài hát, không phải chỉ một mình Thái Kim Lan nhận ra niềm u hoài của một thế hệ, khi hát và nghe trong hoàn cảnh đặc biệt. Bản thân tôi không tranh đấu, không tù tội gì, cũng đã cảm nhận được tâm sự của một lứa tuổi:

Gió heo may đã về Chiều tím loang vỉa hè...Thương cho người rồi lạnh lùng riêng

Nó không tình luỵ như Chiều tím chiều nhớ thương ai của thơ Đinh Hùng, Đan Thọ phổ nhạc. mà là vết bầm tím trong tâm tư một thời đại. Bây giờ tôi còn cảm động khi nghe lại bài hát, do chính Sơn hát cùng với Khánh Ly:

Trong nắng vàng chiều nay Anh nghe buồn mình trên ấy Chuyện chúng mình ngày xưa Anh ghi bằng nhiều thu vắng Đến thu này thì mộng nhạt phai

Tình và Mộng ở đây, không nhất thiết phải dính dáng gì đến phụ nữ.
Mãi đến gần đây, tôi mới nghe Lý Quý Chung kể lại rằng chính quyền Sài Gòn hồi ấy đã nghi ngờ "trên ấy" là trên chiến khu.

Thêm một liên văn bản khác: Nguyễn Quốc Trụ trong bài viết tưởng niệm Trịnh Công Sơn, kể lại rằng cho đến khoảng 1966:

" Chưa để ý đến nhạc Trịnh Công Sơn, nói rõ hơn, nó chưa thấm vào tôi. Phải khi đứa em tôi mất, tới lượt tôi vào Trung Tâm Ba Quang Trung, trong những đêm cận Tết, nằm trên chiếc giường sắt lạnh lẽo, một anh chàng nào đó, chắc quá nhớ bồ, cứ huýt sáo bài 'Tình Nhớ', gần như suốt đêm, thế là tiếng nhạc bám riết lấy tôi, rứt không ra. Lúc này tiếng nhạc của anh, đối với riêng tôi, qua lần gặp gỡ trên, như trút hết những âm tiết địa phương, và trở thành tiếng nói chung của Miền Nam, tức là của cả thế giới, vào thời điểm đó, khi cùng nói: hãy yêu nhau thay vì giết nhau. Bởi vì chưa bao giờ và chẳng bao giờ Miền Nam chấp nhận cuộc chiến đó. Chính vì vậy, họ lãnh đạm với chính quyền, ưu ái với Miền Bắc, vì họ đều tin một điều: Miền Bắc sẽ kết thúc cuộc chiến, và người Mỹ sẽ ra đi. Nhạc Trịnh Công Sơn nói lên tiếng nói đó.
Tính phản chiến của nhạc anh, chính là tính phản chiến của cả một miền đất"
.

Giữa một rừng than khóc ki khu, thì bài Nguyễn Quốc Trụ, nhanh, ngắn nhưng giá trị. Vì chính xác và dũng cảm. Ai đó nói: hình học là nghệ thuật lý luận đúng trên một hình vẽ ... sai. Nguyễn Quốc Trụ khởi đi từ một bản nhạc tình... ngoài đề. Tình Nhớ thì can dự gì đến phản chiến ? Bài hát đại khái:

Người ngỡ đã xa xăm Bỗng về quá thênh thang Ôi áo xưa lồng lộng Đã xô dạt trời chiều ...

Nói về nhạc phản chiến, cứ gì phải dựa vào Đại Bác Ru Đêm ?
Một ví dụ liên văn bản nữa, bài Cõi Tạm, thường được nghe sau này,

Nhân gian về trọ nhiều nơi Bâng khuâng là những đôi môi rất hồng
Là một câu hát nhẹ nhàng, vui tươi, nhưng gợi đau thương cho những kẻ đã từng biết tiền thân câu này:

Nhân gian về trọ nhiều nơi Riêng đây là chốn chưa nguôi máu đào

Tác phẩm được làm năm 1973, hoà ước Paris đã được ký kết mà bom đạn vẫn tiếp tục rơi trên đất nước. Và nhà thơ Ngô Kha, thân thích với Trịnh Công Sơn, đã bị bắt và tra tấn đến chết, thủ tiêu mất xác tại Huế.

Nếu chỉ làm nhạc tình, thì Trịnh Công Sơn sẽ là Lê Uyên Phương hay Từ Công Phụng; nếu chỉ làm nhạc đấu tranh Trịnh Công Sơn sẽ là Nguyễn Đức Quang hay Tôn Thất Lập; nếu pha pha tình yêu và thân phận, Trịnh Công Sơn sẽ là Vũ Thành An. Nếu chỉ phản chiến, e chỉ hơn Nguyễn văn Đông.

Nhưng Trịnh Công Sơn đã tổng hợp một thời đại và xây dựng được một sự nghiệp riêng, gắn bó với vận mệnh đất nước.

Rào nhạc phản chiến Trịnh Công Sơn vào một ấp chiến lược, là việc không sát với thực tế xã hội. Trong thời gian 1967-1972, Sơn sáng tác khoảng 70 bài hát kêu gọi hòa bình, và khoảng một nửa được phổ biến rộng rãi. Nhưng những ca khúc thuần tuý thế sự đó đã được kết hợp với hàng trăm tình khúc khác, cùng phong cách, trong một hoàn cảnh xã hội và chính trị đặc biệt, đến với quần chúng thanh niên cùng tâm trạng. Những điều kiện đó đã hội tụ vào thời hoàng kim của kỹ thuật thu âm bằng máy ghi âm gọn nhẹ, từ băng cối chuyển sang băng cassette, phổ biến từ trong nước ra đến hải ngoại. Từ những Trung Tâm Băng Nhạc và ... Đài Phát Thanh Sài Gòn !

Nghệ thuật Trịnh Công Sơn xét trong toàn bộ, nội dung, hình thức, chủ đề, thể loại, hội với những điều kiện khách quan về chính trị, xã hội, kinh tế, kỹ thuật đã tạo danh tiếng Trịnh Công Sơn trong một thời gian kỷ lục, như Phạm Duy đã nhắc: "Tình khúc Trịnh Công Sơn ra đời, từ giàn phóng là Quán Văn được hoả tiễn Khánh Ly đưa vút vào phòng trà, rồi vào băng casette và chỉ trong một thời gian rất ngắn đã chinh phục được tất cả người nghe.. So sánh với những tình khúc ba bốn chục năm qua, ngôn ngữ trong nhạc Trịnh Công Sơn rất mới".

Sở dĩ đi nhanh như thế vì nhạc tình yêu đã kết hợp với nhạc đấu tranh, được hát trực tiếp, hát cộng đồng. Tác giả hoà nhập vào quần chúng, rồi trở thành một hiện tượng phút chốc thành thần tượng. Đã có lúc thính giả mộ điệu xâu xé để chia nhau mỗi mảnh áo măng tô cũ rách của Trịnh Công Sơn, theo lối "fan" ở phương Tây.

Ngoài ra, hiện tượng Trịnh Công Sơn cũng đã thành hình qua vài yếu tố phụ : dáng người mảnh khảnh, nho nhã, bạch diện thư sinh làm người ta yêu mà không làm người ta sợ. Anh chăm sóc kỹ lưỡng cách ăn mặc, "sang"một cách kín đáo, "thàng" khi trình diễn. Nói năng nhỏ nhẹ, giọng Huế dịu dàng, trung lập, không phải là giọng Bắc Kỳ toàn trị, hay Nam Kỳ tự trị, mà với một giọng Huế trung dung, thường thường là phát âm đúng. Lối nói thân mật, tạo ra ảo tưởng ở nhiều người: mình là người thân thiết của Trịnh Công Sơn, không "nhất" thì cũng gần gần như vậy. Cái cảm giác "gần gần" không phải lúc nào cũng lành mạnh.

Lối sống đơn giản: cà kê bạn bè, khề khà quán sá. Thịnh thời 1967, đêm đi hát, khuya về, kê ghế bố ngủ với bạn bè ở hội Hoạ Sĩ Trẻ, sáng dậy ra quán đợi bạn đãi tách cà phê, mời điếu thuốc lá. Rượu chè, thuốc lá cũng là cách đến, cách ở lại với đời, đãi đưa bè bạn, dần dần tới chỗ đãi đưa số mệnh. Nghiện mà không ngập. Lữ Quỳnh, bạn thân, cho rằng Sơn không nghiện. Nói thế là để bao che, nhưng cũng có cơ sở.

Thêm vào hình ảnh Khánh Ly, "Ôi tóc em dài đêm thần thoại ..." , khi hát đi chân đất – nữ hoàng chân đất, La comtesse aux pieds nus – của một thời – giọng hát rũ rượi, da diết, diễn tả nỗi trầm thống vô vọng : "tin buồn từ ngày mẹ cho mang nặng kiếp người". Hai người đi với nhau, tạo nên hình ảnh "đôi lứa", một đôi trai/gái trong tình bạn hồn nhiên, vô tội, nhắc lại trong giới thanh niên trí thức tiểu thuyết Đôi Bạn chưa xa của Nhất Linh. Cũng có quê hương, tình yêu, thân phận, nhiệm vụ với đất nứơc, trong đó, mùa thu cũng ra đi, mùa đông vời vợi, mùa hạ khói mây, tình yêu dấu chim bay. Lời ca như nhắc lại một cô Loan tựa cửa nhìn xa ... Mây vẩn từng không chim bay đi ... (Xuân Diệu).

Truyền thuyết uyên ương là một ước mơ cao đẹp của Á Đông ; nhưng giới hạn tình cảm trong vòng nam nữ, vợ chồng, tính dục. Chuyện Khánh Ly-Trịnh Công Sơn dường như không vậy. Ngày 8/4/2001, Khánh Ly kể lại "một mối liên hệ cao hơn, đẹp đẽ hơn, thánh thiện hơn là những tình cảm đời thường". Hình ảnh đôi bạn trẻ, một couple ở đây rất mới, đáp lại ước mơ hiện đại của một thế hệ thanh niên muốn phá vỡ quan niệm nam nữ thọ thọ bất thân còn đè nặng lên xã hội Việt Nam. Và muốn lìa bỏ kỷ niệm những mối "tình nghèo, anh cày thuê, em dắt trâu" kiểu đồng hương Ngọc Cẩm-Nguyễn Hữu Thiết.

Trong dư luận, họ cũng không bị nghi ngờ hay tai tiếng, dù người đời có kẻ thắc mắc, tò mò. Những tâm hồn phóng khoáng và "hiện đại" thì gạt phăng đi loại "tò mò bệnh hoạn" ấy. Và đặc biệt Trịnh Công Sơn là người tăm tiếng mà không tai tiếng. Thính giả yêu thương ái ngại cho anh chàng nhạc sĩ tài hoa ngần ấy mà bao giờ cũng bị tình phụ mà không nghe nói phụ tình : Từng người tình bỏ ta đi như những dòng sông nhỏ. Mà sự thật cũng gần gần như thế, dù rằng không ai đi tìm hiểu vì sao mà "lúc đưa em về là biết xa nghìn trùng".

Hơn nữa, ca khúc Trịnh Công Sơn gây được tiếng vang là nhờ giọng hát Khánh Ly: "Một giọng hát có thể xuống rất thấp, rất trầm, mà cũng có thể lên rất cao, một giọng hát khoẻ, dài hơi, giàu nhạc tính. Khánh Ly bao giờ cũng hát đúng giọng, đúng nhịp, ngân, láy đúng lúc, cách phát âm tiếng Việt chuẩn xác – càng về sau càng già giặn thêm – một giọng hát ngay từ thời ấy, tuy vẫn còn nguyên cái chất tươi mát, hồn nhiên của tuổi đôi mươi, nhưng dường như đã mang nặng sầu đau ; một giọng hát vừa có thể lẳng lơ một cách đáng yêu, trong các bản tình ca lãng mạn, lại vừa có thể phẫn nộ, bi ai, trong các bài ca phản chiến" - như nhận xét của Văn Ngọc. Bạn Văn Ngọc, theo sự hiểu biết của chúng tôi, là một người uyên bác về âm nhạc.

Cuối cùng, Trịnh Công Sơn và Khánh Ly thường đi hát cộng đồng, nghĩa là hát không công, không lấy thù lao, chủ yếu là cho thính giả trẻ, tại các giảng đường, giáo đường. Họ tạo, hay tái tạo, một hình ảnh lý tưởng cho nghệ thuật, nhất là nghệ thuật ca hát – mang theo lý tưởng nhân đạo, tình yêu và chính trị. Trong khi đó, đa số nhạc sĩ khác hát để lấy ca-sê, lấy tiền, hay lãnh lương. Có khi lãnh lương để hát "cho đồng bào tôi nghe".

Trong một dư luận – và hoàn cảnh xã hội – thuận lợi, nhạc Trịnh Công Sơn còn đáp ứng lại nhiều nhu cầu tâm lý khác của Miền Nam, bằng nội dung và nghệ thuật trong ca khúc.

Tâm lý thời đó, chủ yếu là chống chiến tranh. Và nói như Phạm Duy, ai mà chẳng phản chiến, cứ gì là Trịnh Công Sơn ?

Như vậy, từ đâu mà nhạc kêu gọi hoà bình của anh lại tạo nên hiện tượng ? Phải chăng từ vị trí Trịnh Công Sơn chọn lựa để tố cáo chiến tranh. Không nên nói giản lược: tự quan điểm nhân dân, vì nhân dân là một khái niệm chính trị khó định nghĩa, thậm chí còn bị nhân danh trong những mưu đồ đen tối.

Ở Miền Nam, vào thời điểm 1970, người dân không còn tin cậy vào chính quyền và những tổ chức chính trị. Họ có tín ngưỡng, nhưng không tin cậy vào tôn giáo như là những thế lực chính trị. Thiên Chúa Giáo, Cao Đài, Hoà Hảo, đã từng được võ trang từ thời chiến tranh Việt Pháp. Phật giáo nổi tiếng chủ trương bất bạo động, cũng có thời kỳ được vũ trang, dù chỉ trong giai đoạn ngắn, 1965; đường lối đưa bàn thờ Phật xuống đường không phải là ai cũng tán thành. Phạm Duy đã hát những bài Tâm Ca tâm huyết "tôi sẽ hát to hơn tiếng súng bên bờ ruộng già" nhưng mặc bà ba đen đứng chung với những đoàn Xây Dựng Nông Thôn. Tôn Thất Lập Hát cho Dân Tôi Nghe, thì không mấy người hát theo, vì "dân tôi" nhận ra tiếng gọi đến từ phía "bên kia".

Sinh trưởng trong một gia đình phật giáo, Trịnh Công Sơn vẫn giữ khoảng cách với các cao trào chính trị do Phật giáo chủ động, dù về sau, Hoàng Nguyên Nhuận có khẳng định "phong trào đấu tranh của thanh niên sinh viên học sinh Huế bùng nổ tự mùa Hạ 1963, đã đẻ ra Trịnh Công Sơn " (bđd). Thời điểm đó, lời nhạc Trịnh Công Sơn mang từ vựng Thiên chúa giáo nhiều hơn từ vựng Phật giáo: như giáo đường, lời buồn thánh, vùng ăn năn, cát bụi, địa đàng ... Nhưng đây là chữ nghĩa văn chương nhiều hơn là rung cảm tôn giáo, gọi là khuôn sáo cũng được, dùng để đẩy đưa câu hát cho có vẻ "hiện đại". Khi cần phải khẳng định một thái độ chính trị giữa những biểu ngữ, gậy gộc thì Trịnh Công Sơn chọn lựa minh mẫn :

Đợi chờ yêu thương trên cây thánh giá Đợi xoá sân si dưới bóng bồ đề
(Đợi có một ngày),trong Phụ Khúc Da Vàng, 1972

Không theo giáo phái, Trịnh Công Sơn không phải là người đảng phái. Không nghe anh nói, mà không nghe ai nói là anh dây dưa với một chính đảng nào, cái đảng của Miền Nam đã để lại kỷ niệm hãi hùng gần nhất là đảng Cần Lao. Còn đảng Cộng Sản thì không dễ gì tiếp xúc...

Anh Nguyễn văn Trung, trong nhiều bài báo trên Văn Học gần đây, có nhắc lại giai đoạn đó và cho biết các "phong trào sinh viên thời đó do Thành Đoàn chỉ đạo, triển khai điều khiển ". Lê văn Nuôi, chủ tịch Tổng Đoàn Học Sinh Sài Gòn hồi đó kể lại rằng, trong ban Chấp hành Tổng Hội Sinh Viên, nhiệm kỳ 69-70, gồm có 7 người thì đã có 4 là người của Thành Đoàn, như chủ tịch Nguyễn văn Quỳ, phó chủ tịch Huỳnh Tấn Mẫm. Và có lúc phó tổng thống Kỳ đã cho mượn nhà làm trụ sở. Tuy nhiên, anh Trung không nhắc, có lẽ vì là ngoài đề, vô tình thôi, là những phong trào đó phát triển được là có sự khuyến khích của người Mỹ, với những Chương Trình Hè, Lên Đường, Quận 8, v.v, chưa kể những tổ chức Thanh Niên Thiện Nguyện, Thiện Chí "nằm vùng" từ trước.

Và dĩ nhiên, chính sách của người Mỹ được chính quyền Sài Gòn thực thi. Đó là thời Nguyễn Cao Kỳ, với nội các chiến tranh, chính phủ của Người Nghèo, của người Trẻ, làm Cách Mạng Xã Hội, v.v. Ông Kỳ muốn lấy lòng thanh niên trí thức tiến bộ, trong đó có Nguyễn văn Trung. Ông lại muốn dựa vào khối phật giáo Ấn Quang, và có cảm tình với đám tranh đấu miền Trung mà ông đã thẳng tay đàn áp năm 1966. Hoàng Nguyên Nhuận mới đây còn nhắc lại.

Riêng với Trịnh Công Sơn, tướng Kỳ lại có tình riêng, một cảm tình nghệ sĩ liên tài. Ngoài những chai rượu, ông còn cho đi máy bay về Huế để ... hát nhạc phản chiến !

Dài dòng như vậy để người đọc thấy tại sao một nhạc sĩ không hợp lệ quân dịch, lại có thể ngang nhiên hát nhạc phản chiến tại trường Đại Học Văn Khoa, ngay trước dinh Độc Lập, và dõng dạc: Gia tài của Mẹ một bọn lai căng, gia tài của Mẹ một lũ bội tình.

Trịnh Công Sơn sống giữa những tranh chấp chính trị mà không dính líu đến chính quyền hay đảng phái, giáo phái, phe phái. Mặc dầu anh thích bạn bè, ưa đàn đúm.

Quần chúng biết ngay điều đó. Chúng ta ngày nay mất công nghiên cứu văn bản, khổ tâm truy tầm tư liệu để tìm hiểu, chứ quần chúng thì họ rất nhạy bén, và nhận ra đâu là tiếng nói vô tư, ngay thật, đâu là tiếng nói có dụng ý, mưu đồ.

Đây là lý do chính giải thích sự thành công nhanh chóng của Trịnh Công Sơn, một sớm một chiều đã thành hiện tượng.

Ví dụ bài Tình Ca Của Người Mất Trí, 1967, đã được tiếp nhận và truyền bá tức khắc :

Tôi có người yêu chết trận Pleime
... chết ngoài Hà Nội
... chết không hận thù Nằm chết như mơ ...

Quần chúng hiểu ra ngay biểu tượng "mất trí", một bài hát không có lập trường theo bên này, hay được chỉ đạo từ phía bên kia. Lời ca dội vang chiến sự, nhưng không có mưu đồ, quả là lời người mất trí. Mất trí là mất tất cả, không còn gì, ngoài cái trí của mình, của riêng mình. Cái trí xa lìa thực tại, bị sa thải ra ngoài thực tại. Trí tuệ ấy chỉ yêu Một Người, nhưng người yêu duy nhất đã chết trên khắp chiến trường, chết mọi kiểu, mọi cách, thậm chí nằm chết như mơ. Chết như mơ ?

Người ta thường nói : đẹp như mơ, chứ ai nói chết như mơ .

Tinh nghịch đổi vài chữ, câu hát vẫn hợp lý, vẫn hay, dù ý nghĩa bị lật ngược:

Tôi có người yêu gặp tại Ba Gia Tôi có người yêu vừa mới đêm qua Yêu thật tình cờ, yêu chẳng hẹn hò Yêu chẳng thề nguyền hạnh phúc như mơ

Lật ngược hay xếp xuôi, tỉnh trí hay mất trí, tình ca hay chiến ca, ai biết đâu là đâu.

Cũng như bài sau này : Hát Trên Những Xác Người, làm sau Mậu Thân 1968 :

Mẹ vỗ tay reo mừng chiến tranh Chị vỗ tay hoan hô hoà bình Người vỗ tay cho thêm thù hận Người vỗ tay xa dần ăn năn ...

Không biết phải giải thích ra sao, ngoài cơn điên loạn của một thời đại.
Nói về những oan khốc chiến tranh, Trịnh Công Sơn đã có lời nhập đề tưng tửng :

Đại bác đêm đêm dội về thành phố Người phu quét đường ngừng chổi lắng nghe

Nghe như là nghe nhạc, nghe quen như câu dạo buồn. Nhạc không lời, một loại romance sans parole. Thậm chí: đại bác như kinh không mang lời nguyện.

Đại bác như kinh ?

Bài hát kết thúc bằng cụm từ có mẹ có em. Cũng như những thành ngữ : có mẹ có cha, có anh có em, có vợ có chồng, có mẹ có em, diễn tả cảnh sum họp, ấm cúng, nhưng ở đây là một đống xương thịt bầy nhầy:

Từng vạn chuyến xe claymore lựu đạn Hàng vạn chuyến xe mang vô thị thành Từng vùng thịt xương có mẹ có em

Sơn có những lời tưng tửng tàn độc như thế, hay đèn thắp thì mờ, ám ảnh cả một đời bạn mình là Bửu Ý. Nguyên tác trong bài Đi Tìm Quê Hương (1967):

Người nô lệ da vàng ngủ quên Ngủ quên trong căn nhà nhỏ Đèn thắp thì mờ ...

Dĩ nhiên, trong văn cảnh, câu hát có nghĩa : đèn không đủ sáng. Nhưng lìa văn cảnh, lời ca dội vào tim: đèn thắp thì sáng, chứ sao đèn thắp thì mờ ?

Nhẫn nhục trong những cơ cực trầm kha truyền kiếp, người phụ nữ Huế có câu hát não nùng:

Ví dầu đèn tắt, có trăng Khổ thì em chịu, biết mần răng đặng chừ ?
Nhưng cũng không đoạn trường bằng đèn thắp thì mờ. Bây giờ Sơn đã đi xa, nhớ câu hát xưa mà thương những người bạn cũ, những người còn ở lại, trong cuộc đời mà Tản Đà đã định nghĩa: đời là cõi bắt con người phải sống.
Những ngọn đèn. Thắp thì mờ...

Năm 1968 là khúc quành trong thời sự Việt Nam, đồng thời là bước ngoặt trong nhạc cảm Trịnh Công Sơn. Có thể có những lý do riêng chung.

Trước hết, là sự kiện nổ súng đêm hát 20/12/1967, tại Quán Văn trong khuôn viên trường Đại Học Văn Khoa. Để tuyên bố kỷ niệm ngày thành lập Mặt Trận Giải Phóng, một nữ khán giả đã cướp micro ; nhân viên ban tổ chức giành lại, và bị bắn trọng thương. Cô gái lên xe Honda bỏ đi. Khoảng hai trăm thính giả - trong đó có nhiều quân nhân - đã dương mắt nhìn theo. Trịnh Công Sơn cùng với Khánh Ly, từ đêm đó không còn đi hát như thế tại Sài Gòn. Nhưng về Huế vẫn hát với sinh viên, đến 1970-1971 thì lại hăng hái tham gia tích cực những sinh hoạt cộng đồng tại Huế.

Do đó, vụ Tết Mậu Thân 1968, anh ở Huế, và đã ẩn thân ở thư viện Đại Học Huế (....) Sơn đã (...) đã sáng tác hai bài tố cáo cảnh giết người, chôn người là Hát Trên Những Xác Người và Bài Ca Dành Cho Những Xác Người, với địa danh bãi chôn người chính xác: Chiều đi qua Bãi Dâu ... Sau đó Trịnh Công Sơn vẫn ở Huế, làm một số bài ca gửi vào Sài Gòn, mà sinh viên, thanh niên tiếp tục hát trong những phong trào xuống đường lúc đó rất sôi nổi.

Hiệu quả chính trị của vụ Tổng Công Kích 1968 là hoà hội Paris mở ra để kết thúc chiến cuộc. Khả năng hòa bình đã ló dạng và Trịnh Công Sơn chuyển hướng, làm những ca khúc có nội dung chính trị rõ rệt, trực tiếp kêu gọi hoà bình, với tập Kinh Việt Nam (1968) và Ta phải thấy Mặt Trời (1969).

Thời điểm này, họa sĩ Trịnh Cung, bạn anh, đã vẽ bức tranh nổi tiếng : Đứa Trẻ Du Ca, tay ôm đàn cầm, có con chim đậu trên mái tóc, ý muốn nói hòa bình đang về trong thôn xóm. Hoà bình là khát vọng chung của thanh niên, và người dân thời đó, mà ca khúc Trịnh Công Sơn đã vang vọng qua những tiêu đề: Ngày Mai Đây Bình Yên, Cánh Đồng Hoà Bình, Đồng Dao Hoà Bình. Và đặc biệt là Nối Vòng Tay Lớn.

Cho đến ngày hoà hội Paris, nhạc thời thế Trịnh Công Sơn chủ yếu là oán trách chiến tranh, một cách thụ động, tố giác những oan khiên vừa tàn khốc vừa phi lý, cảnh một chiếc xe tang, trái mìn nổ chậm, người chết hai lần, thịt da nát tan (Ngụ Ngôn Mùa Đông). Hay than vãn: ôi quê hương đã lầm than, sao còn, còn chiến tranh (Du Mục).

Trong Kinh Việt Nam, từ 1968, anh tích cực kêu gọi: Dân ta phải Sống, Dựng lại Người, Dựng lại Nhà, Hãy đi cùng Nhau, và cụ thể hơn nữa Nối Vòng Tay Lớn. Hay ít nhất cũng là Chờ nhìn Quê Hương sáng chói và tra vấn Ta thấy gì đêm nay ? Sao mắt Mẹ chưa vui ? Đấy là tên những bài hát, những Hành Ca trong tham vọng trở thành một hành khúc Việt Nam:

Đoàn người đi miên man Tìm ánh sáng cho Việt Nam Tìm quê hương xưa Giống Tiên Rồng, giống da vàng ... Nối cho liền, nối hai miền ...

Nói là "quốc ca hụt" là đùa vui, nhưng cũng không sai bao nhiêu (giá dụ : nếu đám tranh đấu Miền Trung thành công trong dự tính ly khai năm 1965, rồi từ đó nắm được chính quyền Miền Nam, thì chúng ta e phải đứng nghiêm, nghe nhạc Trịnh Công Sơn khi chào cờ. Chuyện đã không xảy ra, nhưng không phải là không có khả năng xảy ra trong tuyệt đối).

Thời điểm 1968, hội nghị Paris thật sự đã tạo nên niềm hy vọng vô biên. Trịnh Công Sơn viết lời tựa Kinh Việt Nam:

Kinh Việt Nam là những tiếng kêu thương thống thiết, khởi sự tự một thực trạng máu xương ... Những bài ca được viết từ những hân hoan lắng nghe được trong lòng người. Đó là nỗi hân hoan của đám đông chờ mong ngày hồi sinh ...

Đã có điều gì không thật suốt hai mươi năm nay (...) Chúng ta, dù muốn dù không, bị biến thành những mũi tên định hướng được bắn đi từ những đồ hình huy hoàng tưởng tượng và ngắn hạn. Dân ta tàn phế hai mươi năm. Nước mắt và máu đã làm thành những con suối lớn chảy mòn tiềm lực sáng tạo (...)

Xin hãy dừng tay và cùng chờ nhìn một mặt trời tươi trẻ sẽ đựoc khai sinh ở phương đông (...)

Xin hãy dừng tay để được nghe ba mươi mốt triệu tiếng hò reo trong cùng một phút hân hoan (...)

Tiếng hát đã có thể cất lên để nuôi lớn ước mơ (...)

Một ước mơ vĩ đại, làm bằng những đau thương nối dài vào hoang tưởng "một ngày mà lòng mình vui sướng hơn muôn nghìn năm" (Cánh Đồng Hoà Bình).

Bây giờ, nhớ lại mà thương cho một thế hệ thanh niên đã dở sống dở chết trong hoang tưởng:

Hai mươi năm hận thù đã qua Hôm nay thấy mặt người đổi mới Ta yêu Trời, ta yêu ta, ta yêu em Ta yêu nắng hòa bình vừa đến... Hai mươi năm chờ đợi từng phút giây Hôm nay tiếng Hòa Bình đã thấy Trên môi người trên môi ta, trên môi em Trên môi những người Việt nghèo khốn Hai mươi năm chờ đợi đã lâu ...
(Đồng Dao Hòa Bình)

Hai mươi năm là tính từ 1948, hay trước đó nữa, nghĩa là không kể Điện Biên Phủ, không kể đến hiệp định Genève, dù sao cũng tạo được cảm giác hoà bình trong đôi ba năm. Nhưng nền hoà bình tạm bợ ấy đã phải mua bằng cái giá chia đôi Nam Bắc, mầm mống cho một cuộc chiến tranh khác, lâu dài hơn, thảm khốc hơn, gây nhiều thù hận hơn. Khi Sơn viết hai mươi năm nội chiến từng ngày, thì hằng triệu người đã hát, từ năm này qua năm khác, dù có lúc bị cấm. Hai chữ nội chiến, nếu không có lý, cũng có cơ sở tình cảm của nó. Và đáp ứng lại với tâm lý quần chúng không bị chính trị hóa, không bị giáo dục chính trị, những người dân đau lòng vì cảnh nồi da xáo thịt, mà không truy tầm đến căn nguyên phức tạp.

Có lúc anh bộc trực, chính xác hơn:

Hai mươi năm là xác người Việt nằm Làm sao ta giết hết những đứa con Việt Nam ? Xưa ta không thù hậnVì đâu tay ta vấy máu ?
(Tuổi Trẻ Việt Nam) 1969

Không dễ dàng gì trả lời câu hỏi vì đâu, nếu không đơn giản lặp lại luận điệu bên này hay bên kia. Không có cuộc chiến tranh nào mà lý do đơn giản, chỉ có những đầu óc đơn giản. Thời Nam Bắc Triều, Trịnh Nguyễn phân tranh, Nam Hà Bắc Hà, cuộc chiến chưa chắc đã bắt nguồn từ những lý do đơn giản. Giữa lòng thế kỷ XX, hoàn cảnh càng phức tạp. Chiến tranh Việt Nam, khởi sự là dân tộc giành quyền tự quyết, chống ngoại xâm, nhưng cũng là chiến tranh ý thức hệ, nối dài biên giới chiến tranh lạnh, với sự can thiệp của nước ngoài. Nhưng đồng thời cũng có tính cách nội chiến:

Triệu người đã chết, hãy mở mắt ra Lật xác quân thù, mặt người Việt Nam trên đó Đi trên những xác người: bao năm thắng những ai ?
(Những Ai còn là Việt Nam) 1969

Nhạc sĩ Trịnh Công Sơn không nghị luận chính trị, vì nghị luận sẽ không thành bài hát; anh chỉ nói lên cảm xúc:

Ôi bom đạn cày trên những xác Ôi da vàng Việt Nam vỡ nát Xương thịt đó thiêng liêng vô cùng
(Đêm Bây Giờ, Đêm Mai) 1967

Bây giờ lý luận rằng nguồn gốc của chiến tranh Việt Nam không phải là nội chiến là việc của người làm chính trị, phân tích "bản chất" theo chính kiến, "chính nghĩa" của mình. Người nghệ sĩ chỉ nói lên hiện tượng.

Trịnh Công Sơn là nhạc sĩ phản chiến; quần chúng có hai con đường đến với anh: một là đến với người nhạc sĩ, hai là đến với người phản chiến; họ chọn con đường thứ nhất, nếu anh có tài; họ chọn con đường thứ hai, nếu anh đáp lại tâm tư của họ. Còn những người đi tìm một đồng chí hay chiến hữu, thì dĩ nhiên là thất vọng rồi công phẫn.

Cả hai chính quyền Nam Bắc đã trả công hậu hĩ, và trả ơn đầy đủ cho những cán bộ "hát cho dân tôi nghe". Dân tôi không nghe, lỗi đâu phải tại "cánh vạc bay" ?

Từ 1968, trong những gào gọi hoà bình, thêm một ý tưởng hiện ra rõ nét, là thống nhất đất nước.

Hoà bình là một ước vọng của nhân sinh, ai ai cũng chia sẻ. Thống nhất là một đòi hỏi chính trị, người muốn thế nọ, kẻ muốn thế kia, đại khái qua hai câu hỏi: thống nhất bằng cách nào; và ai chủ động thống nhất ? Trịnh Công Sơn nói lên niềm mơ ước công dân, và không trả lời hai câu hỏi chính kiến, cũng như nhiều nhạc sĩ khác: Phạm Đình Chương viết Hội Trùng Dương, Phạm Duy viết Con Đường Cái Quan, đều chia sẻ một nguyện vọng.

Khát vọng thống nhất đã bàng bạc trong những bản nhạc của Sơn trước đó:

Đêm sông Hương nhung nhớ Ngày Cửu Long mơ, mơ thấy gì Mơ một ngày Hồng Hà góp Hội Trùng Dương Đây quê hương trông ngóng và mẹ chờ mong
Lại Gần Với Nhau (1966)

Nhưng phải đợi đến Kinh Việt Nam (1968) yêu sách ấy mới được diễn đạt chính xác:

Chờ ngày Việt Nam thống nhất Chờ Nhìn Quê Hương Sáng Chói Reo vui cờ thống nhất Chân bước đi trên ba Miền
Những Ai Còn Là Việt Nam
Chính chúng ta phải có mọi quyền Đứng lên đòi thống nhất quê hương
Chính Chúng Ta Phải Nói
Bắc Nam Trung ơi đoàn kết một miền
Huế, Sài Gòn, Hà Nội

Thậm chí anh đã hát rất quyền uy: Hỡi Ba Miền vùng lên Cách Mạng.
Nói Một Miền Rưỡi, thì không sao; nói Ba Miền là đã có vấn đề; nói Hai Miền "vùng lên cách Mạng" sẽ còn nặng tội hơn nữa ! Ôi ! Sơn ơi là Sơn ơi !

Những bài hát rền vang khí thế. Quan điểm chính trị rõ nét, dù là tự phát, cũng có thể thành hình qua những thảo luận với bạn bè. Vì không dễ gì mà trong vài tháng, Sơn đã sáng tác được hằng chục bài hát đồng quy về một nội dung chính trị nhất quán.

Mưu cầu hoà bình đi đôi với ước mơ thống nhất là khát vọng chung. Và đến 1968, người dân thấy rõ không thể có hoà bình mà không có thống nhất. Không cần am tường chính trị cũng thấy điều ấy. Vài ba năm trước, những người thân thiết với Trịnh Công Sơn trong phong trào tranh đấu Miền Trung còn mơ tưởng: "tạm thời Nam Bắc làm hoà, để có lý do cho Mỹ rút chân ra khỏi Việt Nam. Miền Nam Trung Lập trong vòng hai mươi năm (...) Nam Bắc hiệp thương" như Hoàng Nguyên Nhuận đã tuyên bố trên báo Chuyển Luân.

Khi tại Paris hoà hội bốn bên đang tiếp diễn, thì trên danh nghĩa Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam đã biến thành Chính Phủ Cách Mạng Lâm Thời. Rõ ràng là Nam Bắc thế vô lưỡng lập: muốn có hoà bình thì phải thống nhất Nam Bắc bằng cách này hay cách khác.

Cách nào đi nữa thì cũng dưới một màu cờ, do đó Trịnh Công Sơn đã hát: Ta thấy gì trong đêm nay ? Cờ bay trăm ngọn cờ bay ... Anh mong sớm Dựng lại Người, Dựng lại Nhà : tình ta bay theo sóng ngọn cờ ...

Không thể trá hình được câu hỏi: ngọn cờ gì ? Thật tâm thì Trịnh Công Sơn cũng không biết là cờ gì. Trả lời câu hỏi đó, là thêm một lần chia rẽ, đau thương.

Nhạc sĩ rất bén nhạy, từ 1968 đã linh cảm:

Đêm nay hoà bình, sao mắt mẹ chưa vui Nhìn quanh anh em không ai còn lại Anh thầm gọi tên ai. Gọi tên ai ... Anh đi trận về nghe lại chuyện kể Ngỡ giấc mơ ...
(Sao mắt Mẹ Chưa vui)

Năm ấy, bài hát thành công nhất là Nối Vòng Tay Lớn:

Rừng núi dang tay nối lại biển xa Ta đi vòng tay lớn mãi để nối sơn hà(...) Thành phố nối thôn xa vời vợi Người chết nối linh thiêng vào đời ...

Nhạc điệu phong phú, hào hùng, phóng khoáng và lời ca vừa nhẹ nhàng vừa súc tích, nối liền con người với nhau, với đất nước, thành phố với thôn quê, quá khứ với hiện tại, người chết với tương lai. Nhà văn Nguyễn văn Thọ, một bộ đội "phía bên kia", kể lại rằng khi tiến quân vào Sài Gòn ngày 30/4/1975, nghe bài này anh đã chùng tay súng:

" Mặt đất bao la, anh em ta về Gặp nhau mừng như bão cát quay cuồng trời rộng
Lời ca không phải là tiếng thách thức tử thủ. Lời ca không phải là tiếng bể máu như kết cục thường của chiến cuộc, lời ca khi ấy làm chùng xuống không khí thù hận và hằn học"
.

Nhưng đây là chuyện về sau - nói ra đây - để thấy tác dụng của một khúc nhạc phản chiến.

Năm 1969, Bửu Chỉ kể lại: "thỉnh thoảng người ta lại nghe phong thanh đâu đó về một giải pháp hoà bình cho Việt Nam, rồi tại tắt ngấm... Phong trào đấu tranh hoà bình Việt Nam ở các đô thị lại bùng lên mãnh liệt" (Bài đã dẫn), nhạc khúc Trịnh Công Sơn gắn bó với hoàn cảnh, mang một nét mới: chính chúng ta phải nói: chính người dân Việt Nam phải có quyền quyết định về vận mệnh dân tộc, trên cơ sở hoà bình - thống nhất:

Khi tim người rực lửa cầu mong Chính chúng ta phải có mọi quyền Đứng lên đòi thống nhất quê hương Quyết chối từ chém giết anh em Chính chúng ta phải nói hoà bình Đất nước này chỉ còn lại người điên

Tháng 8/1969, anh viết: "Hai mươi năm qua con người Việt Nam khốn khổ đã hiểu được thấm thía rằng không còn một nhân danh nào đủ ý nghĩa và xứng đáng để còn một chỗ đứng trên cái điêu tàn to lớn phủ ngập đời sống nơi đây nữa".

Trịnh Công Sơn kêu gọi Ta Đi Dựng Cờ, Đừng Mong Ai đừng Nghi Ngại. Lời ca hùng hồn, khẩu hiệu, có lúc đại ngôn: đã đến lúc cách mạng tiến lên. Bài Ta Quyết Phải Sống:

Còn sống xin các anh quyết còn cách mạng Đời ta ta lo, xin xếp vũ khí ...

Quyết làm cách mạng và phải xếp vũ khí: nguyện vọng thành khẩn và ngây thơ của một nghệ sĩ giữa những thế lực vô minh, với hằng triệu tay súng mỗi bên, với pháo đài bay, xe tăng, hoả tiễn. Cách mạng, trong mơ ước Trịnh Công Sơn là cuộc đổi đời triệt để, tự bóng tối ra ánh sáng, từ xương máu ra hoà bình "một rạng đông mới sẽ được khai sinh. Nhựa mới sẽ luân lưu cuồn cuộn trong những thân thể Việt Nam".

Trong Những Giọt Máu Trổ Bông, sau khi tính sổ hằng tỷ tỷ giọt máu đã chảy thành suối thành sông hay đã khô cằn trên đất nước, đã che khuất mặt trời, nhạc sĩ quyết định:

Những giọt máu đến ngày trổ bông Nở hoà bình cho đêm vắng xôn xao tiếng người Ngày dân ta đi dành lấy hoà bình Ta phải thấy mặt trời

Và Mặt Trời là biểu tượng ánh sáng, hơi ấm, sự sống và phương hướng: phương Đông, phía mặt trời mọc: "Tuổi trẻ Việt Nam, trời sáng phương Đông". "Một mặt trời tươi trẻ sẽ được khai sinh ở phương Đông". Sơn có lần giải thích: người phương Tây, khi định hướng, dùng chữ orientation, nghĩa là nhắm hướng orient, phương Đông. Việt Nam là chiến trường giữa những thế lực mê chấp đến từ phương Tây. Trong khi đó, phương Đông nguồn cội của đức tin, là quê hương của hoà bình, hoà giải và hoá giải.

Anh và bạn bè anh ở Huế, trong giới Phật tử, đã tin như vậy, theo hồi ký gủa Giáo sư Erich Wulff khi ông kể lại vụ xe thiết giáp đàn áp dân lành tại Huế tháng 5/1963 mà ông đã mục kích. Ông nói về thanh niên Huế và chiến tranh: "Họ xem như là một cuộc chiến tranh tôn giáo (...) càng ngày càng cổ võ cho một nền văn hoá dân tộc mang tính cách Phật giáo và một sách lược chính trị trung lập".

Tư tưởng Phật giáo tiềm ẩn nơi Trịnh Công Sơn, có lẽ đã khởi sắc từ ý thức chính trị, xã hội và văn hoá, trong một thời điểm nhất định. Do đó, tâm hướng về nguồn, về phương Đông, về Đạo trong nghĩa Phật giáo hay Lão Trang, ở Trịnh Công Sơn khác với Hơi Tàn Đông Á nơi Vũ Hoàng Chương ba mươi năm trước, và cách nhau hai cuộc chiến tranh; rồi ý hướng về Đạo, vài ba năm sau, từ 1973, sẽ đơm hoa kết nụ thành những đoá hoa vô thường trong nhiều ca khúc.

Phật tính là mạch nước ngầm trong tâm hồn Trịnh Công Sơn, gặp một hố bom, nó chợt Thấy Mặt Trời, và tuôn trào thành Nguồn Thơ Suối Nhạc.

Phụ Khúc Da Vàng, xuất bản 1972, gồm 9 bài, với Người Mẹ Ô Lý, bài hát tặng người Mẹ già đã gặp trong đoàn người từ Quảng Trị về Huế ; và Mùa áo Quan, tặng những thành phố Việt Nam, có một lần không còn bóng dáng con người, phản ánh chiến trường Trị Thiên khốc liệt những năm 1971-1972, với mặt trận Nam Lào, Đường 9, Cổ thành Quảng Trị, Mùa Hè Đỏ Lửa. Xa hơn nữa, trên khắp chiến trường miền Nam, đi đâu cũng thấy xác người Trị Thiên, theo lời Phan Nhật Nam: Kontum thì dân dinh điền, An Lộc là dân cạo mủ cao su, Bình Giả là dân Cam Lộ, Khe Sanh mới đến định cư. Những phận người nằm chết cong queo, chết vào lòng đèo, chết cạnh gầm cầu, chết nghẹn ngào mình không manh áo. Phan Nhật Nam "nhìn tận mắt những thảm cảnh trên vùng đất quê hương : một bộ xương trẻ con trong chiếc thau nhựa bạc màu ... Một người đàn bà đưa bàn tay trước từng miếng thịt, xoa trên chiếc đầu lâu của người chồng xấu số ".

Khi các phe phái hoà đàm tại Paris thì bom đạn vẫn ác liệt. Chiến xa miền Bắc đã tràn qua sông Bến Hải, mục tiêu vừa quân sự, vừa chính trị là bôi xoá tàn tích hiệp định Genève và vĩ tuyến 17, chứng tỏ chiến trường Việt Nam là một, trong khi chờ đợi nước Việt Nam là một.

Bề ngoài Trịnh Công Sơn vẫn hô hào "Chưa mất niềm tin, vì quê hương sẽ có ngày hoà bình (...), trong lòng nhau thấp thoáng bóng cờ chung". Nhưng ở thâm tâm anh đã bi quan lắm khi "đợi con kên kên trên cành nhỏ lệ ":
Bao nhiêu năm chờ đợi Oán thù là khí giới Trong con tim lời nói yêu thương Đã mất rồi Đợi Có Một Ngày

Trịnh Công Sơn gói ghém nỗi hoang mang chán chường một thế hệ:

Mười lăm năm em có buồn không ?... Đường anh em đi hoài không tới Đường văn minh xương cao cùng với núi Đường lương tâm mênh mang hoài bóng tối... Hãy nhìn lại anh em trên chiến trường Tìm đâu ra những nét mặt thù Được hay thua những thắng bại kia Mặt quê hương tan nát từng giờ
Hãy Nhìn Lại

Khúc hát ngắn đã quy chiếu mọi góc cạnh, kích thước một cuộc chiến tranh, thuộc loại khốc liệt nhất mà dân tộc phải trải qua. Nếu ai đó chê trách Trịnh Công Sơn lờ mờ về chính trị, thì phải hiểu chính trị theo nghĩa lập trường, phe phái. Đứng trên lương tâm dân tộc mà nói, ít có sử gia hay nhà bình luận chính trị nào, mà thu vén được cả bi kịch của đất nước trong cả chiều dài, chiều rộng lẫn chiều sâu bằng bấy nhiêu câu chữ, được giai điệu của nhạc thuật xoáy sâu vào tâm khảm của thời đại.

Đã nhiều người nói Trịnh Công Sơn là thiên tài. Sự đánh giá thành tâm, nhưng mơ hồ, sử dụng một khái niệm khó định nghĩa và không có tiểu chuẩn. Trong bối cảnh Việt Nam hiện nay, chữ thiên tài bao hàm một ngụ ý chính trị. Nhưng nhìn dưới ánh sáng nào đi nữa, sự nghiệp Trịnh Công Sơn cũng là một khối tài tình. Tài và tình sinh ra nhau, nuôi dưỡng lấy nhau bằng lương thực một trần ai khổ ải. Chữ tài, phần nào, là của trời cho; chữ tình là khối đau thương khổ luyện trong khổ nạn.

Và chính khối đau thương - qua những lời ca phản chiến - đã vinh danh Trịnh Công Sơn trong khổ nạn, vinh danh bên ngoài ý muốn của nhiều quyền lực thế trị; và sau này nữa, bên ngoài những mê chấp sân si.

Song song với ca khúc hoà bình làm trong một thời điểm đặc biệt, Trịnh Công Sơn vẫn sáng tác nhạc phẩm ca ngợi tình yêu, tình bạn, thiên nhiên và cuộc đời. Tất cả tâm cảm ấy cùng chiếu rọi về tình người, nổi bật trong bất hạnh.

Nhân đề tài Ca khúc đòi hỏi Hoà Bình của Trịnh Công Sơn, chúng tôi nhắc lại từng giai đoạn trong quá trình nhạc phẩm và bối cảnh chính trị, xã hội của miền Nam chủ yếu từ 1965 đến 1972. Trong những điều kiện tạo nên hiện tượng Trịnh Công Sơn, có yếu tố lớn lao với kích thước lịch sử, có chi tiết bình thường như cách ăn mặc hay ăn nói. Trong tâm tưởng người nghe khó đo lường được cái gì là chính, cái gì là phụ trong những điều kiện làm nên danh phận một tác gia. Điều này bổ sung cho điều kia, chúng tôi ghép lại như những mảnh vỡ của một thời đại.

Và cũng lưu ý dè dặt: bài nào chính xác là phản chiến ? Đối với những người từng nghe, từng sống những ca khúc Trịnh Công Sơn thời thịnh hành, thì khó trả lời.

Với nhiều người, toàn bộ nhạc Trịnh Công Sơn thời đó đều diễn tả khát vọng hoà bình. Những bản nhạc tình, dù chỉ hoà tấu không lời, cũng vang vọng ít nhiều âm hưởng của niềm mong ước đó. Nhưng có một cách phân biệt, nghịch lý nhưng thiết thực: bài nào mà ngày nay không được in lại, đồng thời không được trình diễn trong nước, thì nó là nhạc ... phản chiến !

Đây lại là một cách gián tiếp minh xác vị trí chính trị của Trịnh Công Sơn trong giai đoạn anh làm khoảng 70 bài hát được gọi là phản chiến.

Trong số phận làm dân, và danh phận một tác gia, bên ngoài tài năng, có thể nói Trịnh Công Sơn là người may mắn, may mắn hơn đa số bạn bè một thưở. Nhưng con người dù may mắn đến đâu, thì cũng không thể may mắn hơn Lịch Sử.

Bài hát duy nhất mà chúng tôi có thể xác định thời điểm sáng tác là Ra Đồng Giữa Ngọ làm tại Huế tháng 12 năm 1974, vào những ngày năm cùng tháng tận của một chế độ, chế độ đã sinh trưởng ra anh. Bài hát tiên tri về nhiều mặt:

Thằng bé xinh xinh chơi diều giữa Ngọ Ngờ đâu hội ngộ tan giữa hư không.
Sơn qua đời ngày 1 tháng Tư, cũng vào giờ giữa Ngọ, như con diều bay mà linh hồn lạnh lẽo, con diều rơi cho vực thẳm buồn theo ...
Đối với một số thân bằng quyến thuộc, Sơn bao giờ cũng như đứa bé, suốt đời buồn vui như một đứa bé, nhìn theo " hòn bi xanh, trái đất này quay tròn", nhìn thân phận như cánh diều giữa trời lộng gió. Và ngày nay có người còn hát theo Sơn :
Thằng bé xinh xinh bay vờn giữa Ngọ Ngờ đâu hội ngộ tan giữa hư không Tan trong trời hồng làm giọt mưa trong Tan trên cuộc đời làm lời ru êm Tan trong nụ cười gọi mời yêu thương Tan trong cội nguồn.

Vậy thôi, thôi nhé, vậy nhé, Sơn nhé.

Khi khác gặp lại Toa.

BỬU CHỈ VIẾT VỀ NHẠC PHẢN CHIẾN CỦA TRỊNH


Về những ca khúc phản chiến của Trịnh Công Sơn
Bửu Chỉ

Lúc 12 giờ 45, ngày 01 tháng 4 năm 2001, Trịnh Công Sơn đã ra đi. Trái tim nhân ái và nhạy cảm ấy đã ngừng đập ; bộ óc đầy mỹ cảm và sáng tạo ấy đã thôi vận động. Anh đã để lại cho bạn bè và những người hâm mộ anh một nỗi tiếc thương vô hạn. Một sự mất mát lớn, một khoảng trống không gì bù đắp nổi cho nền âm nhạc hiện đại Việt Nam. Một nhạc sĩ nổi tiếng cùng thời đã nhìn nhận một cách vô tư rằng Trịnh Công Sơn là người viết tình ca hay nhất thế kỷ của Việt Nam. Nói về sự ra đi của anh, những người mến mộ còn ở lại cái cõi trần ai này đã bày tỏ bằng nhiều cách với nhiều ý nghĩa khác nhau. Nhưng nói bằng cách gì và với ý nghĩa nào thì cũng không thể làm vơi đi được nỗi đau thương và mất mát ấy. Rõ ràng là có một sự biến mất về hình hài vật chất mà cha mẹ anh đã tạo nên anh. Quy luật tự nhiên của vũ trụ vô tình vốn hữu sinh thì hữu diệt, hữu hình thì hữu hoại. Nhưng mà thật ra anh vẫn ở lại, ở lại mãi mãi với nền âm nhạc, với nền văn minh và văn hóa nước nhà. Cả một đời lao động sáng tạo cật lực anh đã góp được vào trong sự nghiệp nghệ thuật chung của cả nước hơn 600 ca khúc. Một sự nghiệp đồ sộ. Và đây chính là cái phương tiện, cái quyền năng đã giúp anh chống lại định mệnh. Cái định mệnh của đời người vốn khắc nghiệt và độc ác đã chưa từng bao giờ cho phép ai sống đến tận cùng niềm vui và nỗi khát vọng sống như chính mình mong muốn.

Đối với cộng đồng xã hội, một khi anh nằm xuống, anh đã thanh thỏa hết mọi “ trái khoản” một cách sòng phẳng với trần gian. Một đời mình anh đã làm hết mọi điều mà anh mong muốn, và đã ra đi đúng lúc. Còn tất cả những gì mà anh đã để lại cuộc đời nó sẽ cứ tồn tại một cách hiển nhiên và minh bạch. Không có gì đáng trách và cũng không có gì phải hồ nghi cả.

Thiên tài ư ? Anh đâu cần cái hư danh ấy. Anh là anh, chính điều này mới lớn lao. Vả lại, chính hậu thế vốn rộng lòng và trong sáng hơn đương thời sẽ quyết định điều này. Nhưng dù gì thì gì, đấy vẫn là hư danh. Cái hư danh khiến cho những con người đầy tham vọng sẽ vật lộn, tranh giành nhau một cách đau khổ. Mà thật ra chưa khi nào, dù một lần anh đã thầm ước mơ đến cái tên gọi đầy sân hận đó.

Nhân cách của anh ? Tôi sẽ trả lời rằng Trịnh Công Sơn là một nhạc sĩ đầy nhân cách. Còn lớn hay nhỏ ư ? So với ai ? - Người đời vốn hay chấp về hình tướng, mà hình tướng thì thường làm cho con người mê.
Tôi nói nhân cách của Trịnh Công Sơn nó đầy đủ ở trong thái độ nghệ thuật của anh. Thái độ nghệ thuật này luôn nhất quán ở trong sáng tạo nghệ thuật của mình mà chưa hề khi nào vong thân hay thoái hóa biến chất cho đến phút cuối cùng. Khẳng định về một điều như thế đối với một người đang còn sống thật khó. Nhưng đối với một người đã nằm xuống ta sẽ không còn phải lo sợ rằng họ còn có thể tốt hay có thể xấu, còn có thể đúng hay có thể sai, xứng đáng hoặc không xứng đáng nữa.
*

Một con đường dẫn nhập vòng quanh như vậy đối với tôi là cần thiết, để dọn đường vào vấn đề mà tôi đã tự đặt ra cho mình : Trịnh Công Sơn và nhạc phản chiến của anh. Trong quá trình trình bày vấn đề này, tôi sẽ cố gắng làm toát ra cái tài năng và nhân cách hiếm có đó nổi bật lên trên cái bối cảnh Việt Nam máu và nước mắt, khói lửa và nỗi kinh hoàng trong cuộc chiến dai dẳng và khốc liệt thời bấy giờ. Một cuộc chiến tranh mang tính tất yếu lịch sử của một dân tộc bị áp bức ; nhưng sự chọn lựa và quyết tâm ấy đã không ít đau thương. Và Trịnh Công Sơn đã xuất hiện trong bối cảnh đó như lương tâm của một con người mang trái tim nhân ái nhạy cảm, chỉ biết nói lên những cảm xúc nồng nhiệt của mình đối với quê hương dân tộc, dù thiếu vắng một thái độ chính trị, nhưng trung thực. Nghĩa là tự đáy lòng mình thì mình nói.

Tôi sẽ không nói đến những ca khúc phản chiến của Trịnh Công Sơn với tư cách một nhà phê bình văn học về lời nhạc, cũng như không phải trong tư cách của một nhà nghiên cứu âm nhạc đối với nghệ thuật âm thanh của anh. Mà với tư cách của một người chứng, sống cùng thời và từng sinh hoạt với anh, tôi sẽ nói về thái độ dấn thân bằng âm nhạc của Trịnh Công Sơn trong công cuộc vận động hòa bình cho đất nước đầy tuyệt vọng ; nhưng cũng đầy ý nghĩa và giá trị nhân bản đó. Nghĩa là nói về một Trịnh Công Sơn nghệ sĩ đích thực, một con dân nước Việt mang tình yêu chân thực đối với quê hương vào cuộc. Khẳng định anh trong ý nghĩa này là khẳng định chính sự đóng góp của anh vào trong những giá trị văn hóa, văn minh của cả nước. Một Việt Nam luôn xây dựng trên nền tảng con người và hòa bình.

Thế nào là nhạc phản chiến, và phản chiến như thế nào ?

Phản chiến ở đây là bày tỏ thái độ của mình không tán thành chiến tranh, và sự không tán thành này có nghĩa là một sự đồng cảm, chia sẻ với những con người đang phải gánh chịu những nỗi mất mát, đau thương trong chiến tranh. Đồng cảm mà không đứng ở ngoài, đứng ở một bên ; mà đứng ở cái thế chung cùng một số phận, một định mệnh. Sơn không nhân danh một “ Isme ” nào cả; cũng như không chủ trương chống lại một “ Isme ” nào cả. Hoặc có chăng là anh nhân danh cái gọi là “ humanisme ”, xu hướng nhân bản. Mà thật ra cũng chỉ là một cách gọi đấy thôi. Nói cho cùng, đó là tất cả những gì mình cảm xúc, tất cả những gì vang vọng trong tâm khảm của mình từ một thực tại máu xương như thế của đồng bào thì mình nói ngay ra. Nói không do dự, nói như một lời khẩn báo. Đỗ Phủ ngày xưa ở bên Tàu làm thơ bày tỏ sự xót thương đối với hàng vạn con đỏ đang bị dìm trong máu lửa chiến tranh mà người đời sau cho rằng ông có tinh thần chống chiến tranh là vậy. Thật ra ông chỉ muốn nói lên niềm xúc động sâu xa của mình đối với thời thế, mà ở bên sau cái nỗi niềm này không tiềm chứa một ý thức, một tinh thần cơ hội nào.

Tắt một câu, trong dòng nhạc phản chiến của mình, Trịnh Công Sơn đã chẳng có một toan tính chính trị nào cả. Mà tất cả là làm theo mệnh lệnh của con tim mình, một con tim thương đời, thương người, để nói lên tiếng nói của con tim đó đối với quê hương, dân tộc một cách trung thực và chân thành. Và một khi anh đã vĩnh viễn nằm xuống yên nghỉ thì câu khẳng định này đã trở nên hùng hồn hơn.

Ta sẽ thấy mệnh lệnh của trái tim này đi xuyên suốt trong tất cả các sáng tác thuộc dòng nhạc phản chiến này của anh. Trước hết ta có thể tạm sơ lược về con đường sáng tác các ca khúc phản chiến của Trịnh Công Sơn như sau :

- ý thức phản chiến trong ca khúc của Trịnh Công Sơn đã manh nha vào những năm 1965, 1966. Trong giai đoạn này anh đã cho ra đời tập ca khúc Ca khúc Trịnh Công Sơn (Thần thoại quê hương, tình yêu và thân phận) do An Tiêm xuất bản 1966. Sau đó phát triển dần trong tập Ca khúc da vàng vào cuối 1966 và đầu 1967, tập Kinh Việt Nam năm 1968, tất cả đều do anh tự ấn hành lấy. Cùng với những cuộc xuống đường rầm rộ của thanh niên, sinh viên, học sinh ở đô thị miền nam Việt Nam chống Mỹ và chế độ cũ đòi hòa bình, độc lập, thống nhất đất nước, anh đã cho xuất bản tập ca khúc Ta phải thấy mặt trời vào năm 1970 (Tự ấn hành dưới cái tên Nhà xuất bản Nhân Bản). Năm 1972, khi tình hình chiến sự ở miền nam Việt Nam ngày càng leo thang đến độ khốc liệt nhất, anh đã cho ra đời tiếp tập Phụ khúc da vàng (tự ấn hành dưới cái tên Nhà xuất bản Nhân Bản). Đây là tập cuối cùng của dòng nhạc phản chiến của anh. Tổng kết tất cả gồm 5 tập, với 58 ca khúc, chưa kể những bài rời được sáng tác ngay trong những cuộc xuống đường cùng thanh niên, sinh viên, học sinh Huế.

*

So với những tình khúc mà Trịnh Công Sơn đã sáng tác được trong suốt cuộc đời mình cho đến lúc qua đời, số lượng của những ca khúc phản chiến tương đối ít. Nhưng chính những ca khúc này đã làm cho danh tiếng của anh sáng lên một cách chói lọi. Phải nói là độc sáng. Và chính trong cái vầng hào quang làm nền này, tình khúc của Trịnh Công Sơn tiếp tục sáng giá cho đến hôm nay và mai sau. Chính những ca khúc phản chiến thời bấy giờ đã chắp cánh cho danh tiếng của anh bay ra khỏi biên giới Việt Nam để đến với thế giới, đặc biệt là Nhật Bản. Nơi xứ sở này anh đã từng có những “ Đĩa Vàng ”. Và lưu danh trong bộ tự điển Bách Khoa Pháp Encyclopédie de tous les pays du monde.

Thật vậy, vào những năm 58, 59, 61, 62, những tình khúc như Ướt mi, Thương một người, Nhìn những mùa thu đi, Biển nhớ v.v... đã bắt đầu nổi tiếng trong những phòng trà ca nhạc ở miền Nam. Nhưng phải chờ đến những năm 65, 66, 67 khi tiếng hát của Trịnh Công Sơn cất lên trong các giảng đường Đại Học Sài Gòn và Huế, trước hàng ngàn sinh viên học sinh cuồng nhiệt, với những ca khúc trong các tập Ca khúc Trịnh Công Sơn và Ca khúc Da vàng, cái tên Trịnh Công Sơn đã trở thành một hiện tượng. Hiện tượng Trịnh Công Sơn.

Những ca khúc phản chiến của Trịnh Công Sơn được chép để chuyền tay, được in ra băng cassette, hoặc băng từ loại lớn, còn gọi là băng Akai... Nghĩa là mọi hình thức phổ biến, phương tiện phổ biến đều được tận dụng. Người ta nghe nhạc phản chiến Trịnh Công Sơn trong quán cà phê, người ta nghe trong những cuộc sinh hoạt tập thể của thanh niên, thậm chí người ta nghe trong khuê phòng và nghe ở cả những tiền đồn heo hút...

Dàn trải trên nền một điệu Blue buồn đau và uất nghẹn, với nhịp hát kể Recitativo, ca khúc phản chiến của Trịnh Công Sơn vút lên :

“... Ôi chinh chiến đã mang đi bạn bèngựa hồng đã mỏi vó chết trên đồi quê hươngcòn có ai không còn người, ôi nhân loại mặt trờvà em tôi này đôi môi xin thương ngườiôi nhân loại mặt trời trong tôi...”
(Xin mặt trời ngủ yên - ca khúc Trịnh Công Sơn)
Và,

“... Giọt nước mắt thương con, con ngủ mẹ mừngGiọt nước mắt thương sông ấp ủ rêu rongGiọt nước mắt thương đất, đất cằn cỗi bao nămGiọt nước mắt thương dân, dân mình phận long đong”
(Nước mắt cho quê hương - Ca khúc Trịnh Công Sơn)

Rồi,

“ Mẹ ngồi ru con đong đưa võng buồn năm qua tuổi mòn.Mẹ nhìn quê hương nghe con mình buồn giọt lệ ăn năn. Giọt lệ ăn năn đưa con về trần tủi nhục chung thân...”
(Ca dao mẹ - Ca khúc Trịnh Công Sơn)

Hay từ một hiện thực vừa mới xảy ra trong thành phố :

“ Ghế đá công viên dời ra đường phố.Người già co ro chiều thiu thiu ngủ.Người già co ro buồn nghe tiếng nổ.Em bé lõa lồ khóc tuổi thơ đi...”
(Người già em bé - Ca khúc Trịnh Công Sơn)

Và với Phúc âm buồn, Tuổi đá buồn v..v... Tiếng hát Trịnh Công Sơn như một sợi dây vô hình đã nhanh chóng nối kết những tâm trạng riêng, những số phận riêng của người dân đô thị miền Nam vào trong một tâm trạng chung, một số phận chung. Tâm trạng và số phận này là gì ? Đó là tâm trạng và số phận của những con người Việt Nam đã từng bị lừa, họ là nạn nhân của bạo lực vô minh, mà niềm tin và hy vọng của họ đã trải qua bao lần bể dâu. Đối với họ, mọi khát vọng, mọi dự phóng đều là hư vô. Họ đang vẫy vùng trong một cảnh sống đầy máu xương, mất mát tang tóc của một cuộc chiến tranh phi lí mà lối thoát chưa một lần thấy lóe sáng ở cuối con đường hầm cuộc đời tăm tối đó.

Tôi cho rằng, bằng một khả năng cảm nhận sắc bén bẩm sinh anh đã dễ dàng biến những cảm nhận riêng của mình thành của chung. Bằng một phương cách biểu hiện rất khéo do ở chỗ sử dụng những ẩn dụ, những hình tượng rất mới, anh đã gây được những ấn tượng mạnh cho người nghe, và đặc biệt khi cần phải đối kháng với một thực tại mà anh không thể nào vãn hồi được, anh dựng một thần thoại. Nhờ thế mà tiếng nói của anh dễ dàng lọt vào lòng người, và dễ dàng được đồng cảm.

“ Người nằm co như loài thú khi mùa đông vềNgười nằm yên không kêu than buốt xương da mìnhTừng tiếng người nhiều tiếng người gọi hoài giữa đêm. . .
Người còn đó nhưng lời nói rơi về chân đồiNgười ngồi đó nhưng trong tim máu tuôn ra ngoàiNhuộm đất này nhuộm cho hồng hạt mầm trót vay.”
(Phúc âm buồn - Ca khúc Trịnh Công Sơn)

Bằng một định hướng, cũng như một phương pháp sáng tác như đã được trình bày ở trên, Trịnh Công Sơn đi vào giai đoạn “Ca khúc da vàng”. ở đây, những cảm nhận về quê hương và thân phận đã trở nên mãnh liệt hơn, quặn thắt hơn và đôi khi dẫn đến sự phẫn nộ. Từ Ngày dài trên quê hương, Người con gái Việt Nam, Đại bác ru đêm cho đến Tôi sẽ đi thăm, Tình ca người mất trí, Hãy nói giùm tôi, Gia tài của mẹ... đã nói lên điều đó.

Ta hãy nghe :

“ Người nô lệ da vàng ngủ quênngủ quên trong căn nhà nhỏ đèn thắp thì mờ ngủ quên quên đã bao năm ngủ quên không thấy quê hương. Bao giờ đập tan gông cùm xiềng xích vô hình trói buộc ta bao giờ đập tan gông cùm xiềng xích vô hình trói buộc tự do...”
(Đi tìm quê hương- Ca khúc Da vàng)

“Hãy sống giùm tôi hãy nói giùm tôi hãy thở giùm tôithịt da này dành cho thù hận cho bạo cường cho tham vọng của một lũ điên...”
(Hãy nói giùm tôi - Ca khúc Da vàng)

Tiếng hát đã tạo nên những hiệu quả trong đời sống xã hội thật sự. Nó đã làm cho một số không ít thanh niên nhìn ra cái bản chất phi nhân và tàn bạo của cuộc chiến khiến họ đi đến hành động trốn lính hay đào ngũ. Dưới con mắt của những người cầm quyền thuộc chế độ cũ Sơn là một kẻ phá hoại tinh thần chiến đấu của anh em binh sĩ.

ở miền Nam lúc bấy giờ cường độ của cuộc chiến càng lúc càng gia tăng. Người Mỹ ra sức củng cố chế độ cũ và đẩy mạnh cuộc chiến. Chiến tranh càng lan tràn khắp nơi một cách khốc liệt. Năm 1968, với cuộc tổng công kích xuân Mậu Thân, nhiều thành phố ở trên khắp miền Nam đã trở thành bãi chiến trường. “ Con người trong tôi ” của Trịnh Công Sơn lại tiếp tục lên tiếng mỗi lúc một khẩn thiết hơn :

“ Xác người nằm trôi sông phơi trên ruộng đồngTrên nóc nhà thành phố trên những đường quanh coXác người nằm bơ vơ dưới mái hiên chùaTrên giáo đường thành phố trên thềm nhà hoang vu...”
(Bài ca dành cho những xác người - Ca khúc da vàng 2)

Và trong cái cảnh tượng trần gian là một lò sát sinh đó, đã có những người mẹ, những người chị đã lâm vào trong một trạng thái tâm thần bệnh lý :

“...Mẹ vỗ tay reo mừng chiến tranh chị vỗ tay hoan hô hòa bình người vỗ tay cho thêm thù hận người vỗ tay xa dần ăn năn. ”
(Hát trên những xác người - Ca khúc da vàng 2)

Và sau đó nhiều năm, người dân ở trong các thành phố miền Nam vẫn tiếp tục chịu đựng những cuộc nổ mìn, những trận pháo kích gây thương vong không ít cho đám dân lành vô tội. Ngày ngày không dứt tiếng súng tiếng bom. Và hằng đêm trong ánh hỏa châu vàng vọt ghê rợn, người dân thành phố nín thở, nơm nớp đợi chờ những điều không may có thể xảy đến cho mình. Mỗi ngày, từ chiến tuyến những chiếc quan tài phủ cờ được đưa về thành phố, trên đầu những trẻ mồ côi, những góa phụ, khăn tang cứ bay như phướn.

Từ 1968 cho đến những năm 1969, 1970, 1971, thỉnh thoảng người ta lại nghe phong thanh đâu đó về một giải pháp hòa bình cho Việt Nam. Rồi tất cả lại tắt ngấm. Người dân Việt khát khao hòa bình như kẻ đi trong sa mạc khát đến cháy bỏng cổ họng mà ốc đảo xanh tươi hiện ra trước mặt mình chỉ là những ảo ảnh. Cuộc chiến khốc liệt cứ tiếp diễn. Phong trào đấu tranh hòa bình Việt Nam ở các đô thị lại bùng lên mãnh liệt. Đặt biệt là phong trào thanh niên sinh viên học sinh, bây giờ lập trường đã kiên định : Mỹ cút, ngụy nhào, hòa bình đến. Tôi, kẻ viết bài này đã quyết định, đã chọn lựa đứng vào phong trào đó. Nhưng chọn lựa nào cũng có những đau đớn. Tôi phải đứng về phía dân tộc theo cách của tôi. Để có hòa bình thì dân tộc phải có quyền tự quyết, mà quyền tự quyết thì phải đấu tranh mà dành lấy chứ chẳng ai cho. Nhưng càng đấu tranh thì càng chồng chất đau thương. Những kẻ dễ quên thì dễ sống, còn tôi thì không thể quên điều này. Và phải nói một cách thành thật rằng chính những ca khúc phản chiến của Trịnh Công Sơn trong những năm đầu tiên đã đánh thức trong tôi tình tự dân tộc, sau đó thì tôi chọn một thế đứng quyết liệt hơn, âu cũng là do tánh khí riêng của mình. Nhưng về sau tôi vẫn thường tiếp tục hát những ca khúc phản chiến của anh. Vì tôi thấy nó mang lại cho đầu óc mình sự “ mát mẻ ”, khi mà mình không thể thường xuyên chịu đựng mãi một sự căng thẳng sắt máu. Và đôi khi nó cũng khiến cho mình mơ mộng về một nền hòa bình có thể thế này mà không phải thế kia... Đó là con đường tự do đi đến hòa bình mà không phải đổ máu. Tôi sợ máu!

Trịnh Công Sơn trong giai đoạn cực đoan này thì sao ? - Vẫn trung thành với con đường mà tự anh đã vạch ra từ trước, anh tiếp tục đi, đi theo tiếng gọi của dân tộc mà anh đã nghe thấy theo cách của mình. Có khi anh đi một cách mạnh dạn hơn, và anh kêu gọi, anh hô hào. Và tinh thần của anh, tùy mỗi hoàn cảnh khác nhau mà hy vọng, hào hứng hay tuyệt vọng... hoặc ngược lại. Kết quả là hai tập ca khúc kế tiếp nhau ra đời Kinh Việt Nam (1968), Ta phải thấy mặt trời (1970) (anh tự ấn hành dưới tên NXB Nhân Bản). ở giai đoạn này anh cùng xuống đường với thanh niên, sinh viên, học sinh. Anh hát :

“Nơi đây tôi chờ.Nơi kia anh chờ.Trong căn nhà nhỏ mẹ cũng ngồi chờ.Anh lính ngồi chờ trên đồi hoang vu.Người tù ngồi chờ bóng tối mịt mù...... Chờ tin mừng sông chờ núi cũng chờ mongChờ trên vừng tráng mẹ thắp lên bình minhChờ khô nước mắt chờ đá reo caChờ áo cơm nuôi cho những trẻ con không nhàChờ ngày Việt Nam thống nhất cho những tình thường vỡ bờ.
(Chờ nhìn quê hương sáng chói - Kinh Việt Nam)
Hay :

“ Rừng núi dang tay nối lại biển xaTa đi vòng tay lớn mãi để nối sơn hà...”
(Nối vòng tay lớn - Kinh Việt Nam)
Hoặc :

“ Ta bước bước đi, bước bước hoài, trên quê hương dấu yêu này.Còn bao nhiêu người nhìn nhau hôm nay.Đôi mắt bóng tôi trái tim nghi ngại còn ai quanh đâychưa góp tiếng nói chưa nối lại nắm tay...”
(Chưa mòn giấc mơ - Ta phải thấy mặt trời)

Và:

“ Huế - Sài Gòn - Hà Nội quê hương ơi sao vẫn còn xa. Huế - Sài Gòn - Hà Nội bao nhiêu năm sao vẫn thờ ơ. Việt Nam ơi còn bao lâu những con người ngồi nhớ thương nhau...”
(Huế - Sài Gòn - Hà Nội - Ta phải thấy mặt trời)

Sang đến năm 1972, cục diện chiến tranh trên toàn miền nam vô cùng ác liệt, một cuộc “ Việt Nam hóa chiến tranh ” dưới mắt người Mỹ. Bằng con đường phản chiến lấy trái tim nhân ái mà giải quyết mọi điều, trên cơ sở tình tự dân tộc, Trịnh Công Sơn đến đây thì đã mệt nhoài, và tuyệt vọng. Anh cho ra đời tập ca khúc Phụ khúc da vàng, mà anh đã cho rằng đáng lẽ không nên viết. Đây là tập ca khúc cuối cùng của dòng nhạc phản chiến Trịnh Công Sơn.

Anh hát để kết thúc cho một nỗ lực vô vọng của chính mình :

“...Đường anh em sao đi hoài không tớiĐường văn minh xương cao cùng với núiĐường lương tâm mênh mông hoài bóng tốiTrái đau thương cho con mới ra đời...”
(Hãy nhìn lại - Phụ khúc da vàng)

*

Sau 1975, có một sự im lặng đè nặng lên những ca khúc phản chiến từng một thời nổi tiếng lẫy lừng của anh. Và chính anh cũng giữ sự im lặng cho đến ngày qua đời.

Nếu hôm nay ta nhìn nhận và đánh giá cao những tình khúc của anh, chúng ta không thể nào bỏ qua được những ca khúc phản chiến của Trịnh Công Sơn. Vì chính những ca khúc này đã tạo cho anh có được một tầm cỡ như ngày nay, cho dù những tình khúc của anh vốn đã rất tài hoa.

Có người sẽ cho rằng không phải nói đến những ca khúc phản chiến của Trịnh Công Sơn nữa, vì chữ thời đã qua rồi. Nghĩa là không còn thời tính nữa. Cũng có người sẽ góp ý thêm rằng các ca khúc phản chiến của anh vốn lừng khừng, dễ dãi, nếu không muốn nói là ngây thơ, hoặc thiếu logique lịch sử, chính trị hay là cái gì đó...

Tôi thì cho rằng, đến ngày nay, qua những trò dâu bể của cuộc thế, thời tính của những ca khúc phản chiến của Trịnh Công Sơn vẫn còn. Nó còn trong ý nghĩa của tiếng nói lương tâm và nhân ái. Qua tác phẩm của mình chưa từng ai nói dến lương tâm và lòng nhân ái đậm đà như anh. Tiếng nói này còn phải luôn luôn được tôn trọng trước khi ta bắt tay vào một công việc, mà công việc đó sẽ có ảnh hưởng trên hàng vạn, hàng triệu sinh linh.

Con đường anh đã chọn và anh đã đi suốt cuộc đời mình là một con đường không dễ chọn. Nếu từ thời điểm hôm nay để nhìn lại thời bấy giờ thì rõ ràng là anh đã đi giữa hai làn đạn. Mà bất kỳ khi nào một viên đạn từ một hướng nào đó có thể kết liễu cuộc đời anh. Anh có lý của riêng anh. Là một nghệ sĩ chân chính, anh đã chọn cái logique của quả tim, và bằng trực giác nghệ thuật anh đã dựng nên sự nghiệp của mình. Đừng bắt anh phải làm chính trị, cũng đừng bắt anh, làm một “ con buôn thời thế ”. Anh sẽ không dại gì đầu cơ, cũng như đầu tư tài năng và tâm huyết của mình cho một cuộc chơi ngắn hạn như vậy, mà kết cục thua lỗ là một điều tất nhiên. Anh chỉ biết sống và rung cảm bằng một quả tim trung thực, và dùng tài năng của mình để nói lên điều mà con tim muốn nói. Vì anh là Trịnh Công Sơn, một nghệ sĩ lớn, một nghệ sĩ của mọi người, và sống giữa mọi người. Chính sự ngưỡng mộ của mọi người đối với anh lúc anh còn sống, và đoàn người đông đảo tiễn đưa anh lúc anh qua đời đã nói lên rằng trong sứ mệnh nghệ thuật đối với dân tộc anh đã thành công.

Trong những ca khúc phản chiến anh còn để lại, phản chiến chẳng qua là một cách gọi, đừng chấp, vẫn có nhiều ca khúc có thể hát đơn hay đồng ca vào thời bấy giờ.

Hãy tiếp tục hát lên những khúc hát về lương tâm và lòng nhân ái của anh. Vì hơn bao giờ hết, hôm nay chúng ta vẫn đang cần đến lương tâm, lòng nhân ái cho những việc lớn lẫn việc nhỏ. Và chúng ta đừng bao giờ nhìn về bi kịch con người bằng một cái nhìn đơn giản.

Vỹ Dạ, 25-4-2001

Thứ Bảy, tháng 4 12, 2008

HOA CHỈ LÀ HOA THÔI MÀ !

Mùa này, hoa bằng lăng nở tím các con đường nội ô Cần Thơ. Đường Tự Đức, đường Hàng Xoài đầy sắc độ của màu tím – màu của lãng mạn, của hoài nhớ, của mộng mơ, của gì gì đó… tuỳ tâm trạng khách bộ hành. Tất cả chỉ là sự liên tưởng của người ta. Còn hoa chỉ là hoa thôi mà !

Ừ, mà liệu thời buổi này có còn khách bộ hành nữa không đây, khi song hành với thời gian thì không gian đã thay đổi quá nhiều. Người Cần Thơ đã bắt đầu tập lề thói đi nhanh, sống nhanh… như những đô thị phát triển khác. Tên phố đã đổi thay. Thay vì Tự Đức đã là Lý Tự Trọng, thay vì Hàng Xoài đã là Hoà Bình. Trên những con đường này, xe hơi nhiều hơn, xe máy phóng nhanh hơn. Khuôn mặt người ta ắt hẳn theo đó cũng khác hơn. Lề đường dành cho khách bộ hành nay la liệt quán xá, bãi giữ xe. Những cư dân còn quen miệng gọi Tự Đức, Hàng Xoài đa phần đã như ngọn đèn trước gió. Khách bộ hành là họ đấy nhưng đâu còn không gian nào để họ hoài niệm, nói chi đến chiêm nghiệm này kia. Vậy hàng hoa kia liệu có buồn, có cô đơn. Hay hoa cũng chỉ là hoa !

Mới đó mà mình đã gắn bó với cái thành phố có chút chi trễ nãi, bình thản này đã 10 năm. Khoảng thời gian đủ để mình nhớ một vài gốc cây, một vài góc phố thân quen nào đó. Như những hàng cây bằng lăng tím ngắt chẳng hạn. Đâu như chỉ có 3, 4 cây gì đó cho ra những cánh hoa tím phơn phớt trắng đẹp lạ lùng. Một cây ở đầu đường Tự Đức (xéo góc café Ca Dao), hai cây trên đường Hàng Xoài (một đối diện café Tâm, một ngang mặt Shop trái cây 42), lại còn một cây khác bên hông Ngân hàng NN&PTNT. Mỗi khi tới mùa hoa nở, thế nào hai ông bạn già Tr và Đ cũng lại gọi điện ơi ới: “Cây bằng lăng bông trắng nở rồi kìa. Bà thấy chưa”. Ủa, hoa chỉ là hoa thôi mà mấy ông bạn !

Cách đây độ chừng 4 năm, quán café bên hông Bưu điện tỉnh, đầu đường Hàng Xoài là nơi chốn quen thuộc của mình. Chỉ là lề đường thôi nhưng tấp nập người. Quán có mấy tên chạy bàn vui tính, nhanh nhẹn tính ý. Khách đông cỡ nào, tụi nó cũng quen mặt, thuộc luôn sở thích. Đến đỗi hôm nào không có ý định uống café đá thì vừa xuống xe mình đã phải gào lên: Ê, bữa tay tao đổi ý nghen ! Ngồi ở chỗ này vừa mát, vừa có thể nhìn ngắm phố phường và theo đó mà tám, mà bình luận chuyện đời lung tung, vui vô kể. Như chuyện, có hôm một bác tài chạy xe lôi chở mấy cần xé cam, chặt cua ngay đài phun nước gắt quá khiến xe bị lật. Người ngợm bác tài thì hổng sao nhưng cam quýt thì tung toé. Từ xa, có hai anh áo vàng chạy tới lúi húi lượm cam. Vậy là bên hàng quán này người ta bình lựng quá xá. Nào là: Mấy ông thấy không, người ta tốt quá mà, ai nói họ chỉ biết làm mặt lạnh hả. Nào là: Lâu lâu mấy chả làm chuyện coi được quá xá, nhìn số xe để lên báo khen cái cho đã đi bồ. Tám chưa dứt câu lại thấy mấy anh áo vàng lượm cam vừa đủ để… bỏ vô túi quần rồi… rồ ga chạy tiếp ! Ha ha… khỏi kể cũng biết câu chuyện hôm đó nó vui cỡ nào. Ừ mà đến bây giờ khi viết entry này, mình mới sực nhớ, hôm đó chằng có ai - kể cả những người cự nự mấy anh áo vàng hăng nhất - chịu băng qua đường lượm cam tiếp cho bác tài cả (!). Một ngày nọ, tới quán, không chỉ mình mà cả những khách quen khác thấy trống lơ, trống lốc, mặc dù các dãy bàn ken kín người, không ghế trống như xưa nay vốn vậy. Nhìn lên trời, thấy trống hươ, trống hoác. Hoá ra, cây mai hoàng hậu ở góc quán đã bị đốn hạ cho việc chỉnh trang lề đường tự bao giờ. Tiếc ngẩn, tiếc ngơ. Lâu nay thấy vắng, cứ tưởng nó chưa ra hoa. Vậy là từ ông cán bộ bên uỷ ban, đến cha chủ tiệm vàng, bà chủ sạp vải đến thằng cha bán vé số có cái bụng chang bang vì xơ gan cổ trướng cũng bàn tán: Cây này cho hoa nhiều nhứt nghen. Mấy ông nhiếp ảnh tới mùa là ra chụp nhiều lắm. Cha, cây mai này hổng còn coi chừng bà chủ làm ăn hổng bằng trước nghen… Mình bật cười vì cái tính nhiều chuyện của người ta. Hoa cũng chỉ là hoa thôi mà !

Năm tháng qua đi. Quán café bên gốc mai hoàng hậu đã không còn. Bà chủ café bưu điện mở ra nhiều quán mới. Bà này coi bộ cũng giàu dữ. Mua toàn nhà mặt tiền bự bự ở mấy đường lớn không hà ! Mình cũng tới thử mấy quán mới của bà ta. Nhưng để có cảm giác an nhiên, tự tại như quán xưa thì sao khó quá. Cũng đã ghé thử vào quán khác như Hợp phố, như Thiên Nga, như VIP… nhưng tai nghe nhạc xập xình, bàn ghế cứ như đồ giả trang thì liệu có hồn vía nào mà nghĩ ngợi lung tung. Nhìn qua hiên quán thấy vài đọt bằng lăng hoa tím, nhưng tầm nhìn lại vướng víu mấy dây điện chớp tắt xanh đỏ lại thấy buồn bực trong lòng. Tự nhiên thấy hoa đã không còn là hoa đấy thôi !

Đôi khi suy nghĩ vu vơ. Cái thành phố bình an này nắm níu mình vì lẽ gì. Mấy ông anh cũng nói rằng, một nơi chốn không bà con, không thân thích, không họ hàng thì ở hay không ở cũng vậy mà thôi. Nhiều khuôn mặt lướt qua, nhiều kỷ niệm lướt qua… Mình bỗng phát hiện ra những điều lưu giữ trong ký ức mình lâu nhất vẫn là những chuyện hết sức vu vơ, không đâu vào đâu. Như chuyện hoa bằng lăng, hoa mai hoàng hậu bên góc phố chẳng hạn. Hoa chỉ hoa thôi mà, tại sao cứ nắm níu chân người !